Năm 1957, Hãng Điện Ảnh Metro Goldwyn Mayer và đạo diễn Edward Dmytryk thực hiện xong cuốn phim RAINTREE COUNTY[1] tại Hoa Kỳ, căn cứ vào cốt truyện của Ross Lockridge, Jr.[2] Cuốn phim này khi trình chiếu tại Pháp và Việt Nam được chuyển ngữ sang tiếng Pháp và lấy tên là L’ARBRE DE VIE [tạm
dịch là “Cây Nhân Sinh”]. Trong số diễn viên, nổi bật nhất là
Elizabeth Taylor, thủ vai người đẹp miền Nam, Susanna Drake, còn
Montgomery Clift thì thủ vai người hiền phương Bắc, John Wickliff
Shawnessy. Cả hai nhân vật có chung một tâm sự, một ao ước: tìm thấy
“Cây Mưa Hoa”/Raintree, tìm thấy “Cây Nhân Sinh”/L’Arbre de Vie.[3]
Thật
vậy, ngay trong phần nhạc mở đầu cuốn phim này, Nat King Cole đã hát:
“Người ta bảo rằng tại Quận Raintree, có một cây cao chót vót với những
chùm hoa vàng óng ánh. Bạn sẽ thấy một cây mưa hoa, như một nội tâm…,
hay một giấc mơ mê hồn…”[4] Rồi tới lúc Susanna hỏi: “Cây mưa hoa ư? Thế sẽ xẩy ra sao khi thấy cây mưa hoa đó ?[5] John Wickliff trả lời: “Cây đó sẽ mở mọi cánh cửa và chữa khỏi mọi thương tích”.[6] Susanna nói theo: “Bao lâu nay, em từng tìm kiếm một cây tương tự”[7] ̶ cây nhân sinh mầu nhiệm, cứu nhân độ thế.
Năm 2008, Jenny Do cũng dấn thân vào một cuộc tìm kiếm tương tự, dưới tường thuật một lộ trình mệnh danh là “Đường Khuynh Diệp”,[8] mà
âm hưởng phần nào vang vọng “Đường Tơ Lụa” ngày xa xưa của những cuộc
phiêu lưu mua bán, vận chuyển tơ lụa liên lục địa, từ Á Châu, qua Trung
Đông, để cung cấp thị trường Âu Châu. Nhưng đặc biệt, “Đường Khuynh
Diệp” lại là một cuộc hành trình nhiều ý nghĩa hiện sinh, qua nhiều dạng
tường thuật phối nhập.
Về
bố cục, «Đường Khuynh Diệp» phân mảnh trong không gian và thời gian
thành những đoạn đường tìm kiếm, gặp gỡ, thành những “trạm” tường thuật
hiện sinh. Tác giả đã phân tâm, phân mảnh “Đường Khuynh Diệp” thành bốn
đoạn chính trong cốt truyện, đó là “Đường Khuynh Diệp ― Phần I, II, III”
và “Đường Khuynh Diệp ― Đoạn Kết”.
Trước hết, “Đường Khuynh Diệp” khai mở như một tự truyện.[9] Jenny, tác nhân trong tự truyện này, sau nhiều tháng điều trị bệnh ung thư vú bằng phép hoá trị, hay chemotherapy, đã từ Hoa Kỳ về Châu Á để dưỡng bệnh, “thay đổi không khí, giải tỏa tâm trí, tìm thêm sức sống.” [ĐKD, Phần I]
Tác
nhân đã chọn “Đường Khuynh Diệp” làm lộ trình kèo dài cuộc sống, vì tin
vào sức mạnh mầu nhiệm, cải tử hoàn sinh của cây khuynh diệp,[10] nên đã quyết định trở về nước “trầm mình trong hương vò của lá,… để thấy tăng thêm năng lực.”[11] Tác
động tìm kiếm lá khuynh diệp nhằm mục đích điều trị bằng dược thảo, sau
khi con bệnh đã từng “hốt thuốc tam thất, hốt lá đu đủ, uống cỏ”.[12]
Nhưng vì căn bệnh ung thư lại xẩy ra trên cơ thể của Jenny, một người
nữ sinh đẻ tại Việt Nam, nên tác nhân muốn tìm ra bằng được cây khuynh
diệp Việt Nam, với những sắc thái, hương vị “bẩm sinh”, bám chặt vào địa
danh cố quốc. Từ một cuộc hành hương của người lâm bệnh, một tín đồ
cởi mở, “Đường Khuynh Diệp” đã mỗi lúc mỗi đi sâu vào nội tâm của người
tìm niềm sống, dần dần trở thành sự hồi hướng về quá khứ, gắn bó với ý
nghĩa nguồn gốc của chính mình. Tìm kiếm hưởng vị “khuynh diệp trong
trí nhớ” là thế.
Nhưng
sự tìm kiếm cây lý tưởng đó đã không thể thực hiện được qua những hoàn
cảnh quá thực tế, trong những không gian quá phũ phàng. Đất “Nắng Quái
Kampuchea” không có nổi một bóng cây khuynh diệp. Do đó:
“Mùi khuynh diệp đã không đến với tôi tại Phnom Penh…”
“Tôi hoàn toàn không tìm được hương vị khuynh diệp nơi xứ sở của kỳ quan Angkor Wat”… [ĐKD, Phần I, “Nắng Quái Kampuchea”]
“Tôi hoàn toàn không tìm được hương vị khuynh diệp nơi xứ sở của kỳ quan Angkor Wat”… [ĐKD, Phần I, “Nắng Quái Kampuchea”]
Cơn
rét quá tàn khốc tại Hà Nội làm tê liệt mọi nỗ lực tìm kiếm sinh khí
của Jenny. Tại đó, tác nhân không có dịp tìm thấy cây khuynh diệp.
Ngay cả thứ hoa mận vùng đất Hoà Bình, như một hình ảnh thay thế cho cây
khuynh diệp cũng không thể tìm ra:
“Hoa
mận vẫn biệt tăm. Thì ra năm nay hoa mận nở sớm và đã rụng hết khi cái
rét tràn về. Chúng tôi tay trắng quay về Hà Nội” [ĐKD, Phần II]
Từ
trạm này sang trạm khác, con đường nối thẳng những cuộc tìm kiếm “hương
vị khuynh diệp” tiếp tục không đưa tới đích mong muốn, trong sự lồng
ghép của thất bại trong thất bại, của vô hiệu trong vô hiệu, của vắng
vợi trong khoảng trống, mỗi lúc thêm tách mảnh, đến độ hương vị lá thơm
cũng biến thể, nhạt nhoà không nhận ra, ngay cả khi cây khuynh diệp bỗng
dưng xuất hiện:
Dốc
Lết cũng thật hoang dã, nhưng sau vài bữa lang thang, cuối cùng tôi
cũng tìm được bóng mát của cây khuynh diệp đợi mong. Tôi vò mãi lá
khuynh diệp để tay thêm xanh nhưng không hiểu sao bàn tay tôi vẫn trắng
và mùi hương chỉ thoang thoảng. Thế nghĩa là sao? Tay tôi đã khác xưa và
mùi khuynh diệp đã thay đổi? [ĐKD, Phần II]
Lá
hay người đã “khác xưa”? Cảnh hay người đã “thay đổi”? Đó là câu hỏi
hay nhận định nghẹn ngào khi nữ khách không thấy dấu hiệu hay hương vị
của cây nhân sinh mong đợi. Nhưng nhận định như thế chưa đủ để giải mã
tác động nội tâm, vừa tâm linh, vừa siêu thực mà tác nhân mỗi lúc chuyển
diện. Hương vị khuynh diệp, trong cuộc hành trình tìm kiếm của tác
nhân giải bệnh, giải khổ, không phải là một thực thể khả dụng, khả khán,
nên không thể khả chấp nguyên vẹn bằng thị giác, vị giác, lẫn khứu
giác. Thực sự, dầu khuynh diệp không phải là một liều thuốc cải tử hoàn
sinh mà lại ẩn dụ một giá trị biểu tượng sâu sắc khác: tìm “cây khuynh
diệp” và kiếm hương vị khuynh diệp là tìm lẽ sống để biết rõ ý nghĩa và
giá trị hiện hữu của cuộc sống, trong đó, khổ đau, chết chóc có tính
cách lây biến, bao la, tập thể. Của đa số, của nhiều hoàn cảnh đổ vỡ,
đày đoạ khác nhau.
Tác
giả đã khéo léo giúp tự truyện tháo mảnh trên “Đường Khuynh Diệp”, mỗi
lúc đa diện, đa trạng, mở rộng chân trời, trong cuộc hành trình tìm kiếm
giải thoát, bằng những mảnh gương soi sáng[13]
sinh tử, khổ đau đồng tâm điểm của chúng sinh, của con người. Đó là kỹ
thuật trước tác lồng ghép “truyện trong truyện”, mà André Gide gọi là
“mise en abyme”.[14]
Trong
nội cảnh của từng trạm gặp gỡ bên lề, tác-nhân-con-bệnh trở thành
người-chứng-của-khổ-đau, như tại hậu cảnh của những cuộc tàn sát tập thể
trên Đất Miên thác loạn:
Gần
3 triệu người đã mất mạng một cách dã man trên đất này, trong đó có một
số người không nhỏ là người Việt. Mấy ai trong chúng ta có thể tưởng
tượng được sự độc ác của loài người lại sâu thẳm đến thế.
Khi
thăm trại chôn người Choeung Ek, tôi phải đối diện với sự hãi hùng chưa
từng gặp. Ngoài các mộ tập thể loang lở trên khu đất rộng, ngoài tòa
lầu sọ người cao đến rùng mình, ngoài những đống quần áo phảng phất dấu
bùn và máu khô, những đôi dép há mõm, những đống xương ống chân tay,
những cái ly đựng răng hàm của nạn nhân, tôi còn thấy những cây có bát
nhang và giỏ trái cây treo lơ lửng trên cành. Tôi cố nén xúc động. Tự
hỏi tại sao người dân lại thờ những cây này. Mấy giây sau thì tôi vỡ lẽ.
Trên thân cây có những vết dao sâu hoắm ngang dọc chi chít. Thì ra trẻ
em đã bị đè vào những cây này trước khi thân hình bị chặt ra. Ở các hố
chôn người đã được tìm thấy ở chung quanh, có biết bao xác đã không được
nguyên vẹn hình hài. Có một hố đa số xác phụ nữ và trẻ em không có đầu
và quần áo. Đã hơn 30 năm trôi qua, vậy mà người viếng thăm Choeung Ek
vẫn có thể nhìn thấy xương vụn và quần áo của nạn nhân còn nằm rải rác
đâu đó bên bờ các ngôi mộ tập thể [ĐKD, Phần I, “Nắng Quái Kampuchea”].
Cũng
như người xưa đã từng bôn ba qua những cánh sa mạc khô khan, nghiệt
ngã, trên con đưởng tải lụa viễn xứ cầu phúc lợi, nay Jenny trong cuộc
hành trình về Châu Á tìm nguồn sống, đã tạt qua những mảnh đất “nắng
quái Kampuchea”, để tận mắt chứng kiến những cánh đồng sát sinh,[15] những
ngôi mồ tập thể của hơn ba triệu nạn nhân, sau khi bị hành hạ, tùng
xẻo, “cáp duồn”, tàn sát oan ức, dã man. Những hiện tượng khủng khiếp
đó là hậu quả trắng trợn của một giai đọan lịch sử nhân loại tối tăm,
suy sụp, thác loạn; của thứ tư tưởng tha hoá, diệt chủng; của ý thức hệ
cộng sản mù quáng, vô nhân đạo, tăng trưởng bởi sự thù hằn độc ác của
những đầu đảng, tù trưởng khát máu, dốt nát, những Pol Pot và đồng bọn
Miên cộng.
Sinh
mạng của con người không còn tùy thuộc vào lẽ sống sinh tồn tự nhiên,
hài hoà với môi trường, với luân lý, lẽ phải. Sinh mạng của con người
cũng không còn được giải thích bằng tín ngưỡng tôn giáo hay bằng thứ
định mệnh an bài, khả chấp. Sự tàn sát quy mô của ba triệu người dân vô
tội trở thành một hiện tượng quái gở, vượt khỏi mọi giải thích hợp lý,
hợp nhân, hợp đạo. Những cuộc tàn sát tập thể, phi nhân, phi nghĩa đó
trở thành một thứ ung thư đang di căn, lở loét, tàn phá ngay trong lòng
nhân loại, một căn bệnh hiểm độc, tới ngày nay vẫn tác quái, sát hại,
bất trị. Còn biết bao nhiêu lò sát sinh tập thể khác, do ô nhiễm môi
trường, do tai hoạ nhân tạo, do chiến tranh quy ước lẫn vô thường,
nguyên tử, khủng bố… Pol Pot và đồng bọn vẫn biến dạng đổi hình, lúc ma
quái, lúc bạo tàn, để tiếp tục triệt hạ loài người. Họ là những tà khí,
phát xuất từ ngoại thể, và cũng trào phá ngay trong nội giới. Họ là
những thứ “phiệt”, những quan niệm hành động quá khích, quá đáng, tham
lam, do chính con người biến thể chủ trương và tạo dựng để cướp đoạt và
triệt hại con người. Và cũng để tự huỷ. Sinh tử trở thành sự đột phá
vô cùng nhanh chóng, bất khả cưỡng, như một cuộc thử thách tột độ, ngông
cuồng, vô nghĩa.
Hiện
tượng khổ đau, nguy nan còn liên hệ tới nhân cách của một xã hội sa
đoạ, biến thải, với những nhu cầu sinh tồn hèn hạ nhất, dưới áp lực của
đói khổ, thiếu thốn, dốt nát:
“Nếu
hôm qua người Miên và người Việt là nạn nhân của phong trào diệt chủng
của Pol Pot, thì hôm nay họ là nạn nhân của một tội ác mới. Đó là tội
buôn người. Những cuộc mua bán người Việt, Miên để làm nô lệ đang được
tiếp diễn hàng ngày tại Kampuchea” [ĐKD, Phần I, “Nắng Quái Kampuchea”].
Kampuchea
trở thành đất chứa những ổ điếm trá hình phòng trà và “những thế giới
đen” bỉ ổi, mà kẻ hành nghề bán dâm là những phụ nữ xinh đẹp, phần đông
là người Việt. Theo báo cáo của TIP (Trafficking In Persons Report)
của những năm 2005-2007, rất phiều phụ nữ, trẻ em 9, 10 tuổi đã trở
thành nạn nhân của các cuộc “mua bán người” ở Kampuchea. Họ từng bị ép,
dụ, trao bán, đôi khi bởi chính người thân kẻ thuộc, trong thế mưu sinh
khốn cùng, tuỳ thuộc vào nhu cầu của giới “mua hương”.
Trên
mảnh đất Miên nắng quái, tác nhân tuyệt vọng không tìm thấy được cây
khuynh diệp mong muốn, vì mùi tinh khiết của lá dầu thơm đã bị lấn át
bởi mùi “hương” trụy lạc của phụ nữ, trẻ thơ bị dày vò, ô uế bởi con
người vô luân, nhiều nhục dục:
“Tôi
hoàn toàn không tìm được hương vị khuynh diệp nơi xứ sở của kỳ quan
Angkor Wat, nhưng cảm thấy người tôi thêm được một sức sống mới vô
hình. Tôi phải làm gì đó.” [ĐKD, Phần I, “Nắng Quái Kampuchea”]
Giữa
những cảnh huống đau lòng trên, tác nhân “đã quên hết đi căn bệnh của
mình” khi thấu hiểu rằng, tại nơi cố quận, con người sống và chết thật
khó khăn, ai oán. Tác nhân không còn giữ trong tay vết tích lá khuynh
diệp, vì còn nặng lòng và bận tâm “khiêng quan tài” cho người khác [ĐKD,
Phần II], hoặc công phẫn trước những “guồng máy bóc lột công sức lao
động” của người dân địa phương, thấp kém, thiệt thòi:
Trong
khung cảnh uy hiếp này là những công nhân nam nữ ốm tong teo, đứng
thành hàng luôn tay làm những động tác giống như là đuổi theo các máy
móc kia. Trong nhóm người này tôi nhận ra có những đôi mắt còn quá trẻ,
quá non nớt. Bên cạnh các đôi mắt đó tôi thấy xuất hiện những nhãn hiệu
quen thuộc như Albertson’s, Gamestop, Pizza Hut, 99 Cents, KFC,
Safeway, v.v. Hết khu vực này đến khu vực khác, tôi không thể ước lượng
được có bao nhiêu những con người lam lũ kia đang làm việc trong hoàn
cảnh đó. Họ làm việc trong cơn nóng ác nghiệt, trong sự ồn ào đe dọa của
máy móc, không mũ bảo hiểm, không găng tay, không có gì để bảo vệ lỗ
tai. Tôi không thể tưởng tượng được họ có thể làm việc như thế ngày này
qua ngày khác. [ĐKD, Phần III].
“Đường Khuynh Diệp” đã lần lượt biến thể qua nhiều “trạm” đối tác, mà khung cảnh là những trường hợp “tận cùng” (cas-limites)
khiến người trong cuộc phải lựa chọn giữa tù túng và giải thể, giữa đập
phá và nguyên vẹn, giũa sống và chết, giữa nhân cách và tha hoá. Khổ
đau, chết chóc đều có ý nghĩa, có tác dụng bồi bổ cho cuộc sống, trên
bình diện hiện hữu toàn năng:
Sau
khi Thi nằm xuống, bố mẹ Thi yêu cầu trao tất cả tiền phúng điếu cho
hội Friends of Huế Foundation để giúp các trẻ em khác. Mộ của Thi chưa
xanh thì chúng tôi nhận được tin từ miền Trung là có 6 em nhỏ đang cần
mổ tim cấp bách. Nếu không thì các em sẽ không thoát hiểm. Trong đó có
một em cũng cùng ngày tháng sinh của Thi. Mỗi một cuộc mổ tim tốn khoảng
1000 Mỹ kim. Mẹ Thi yêu cầu Hội ra tay ngay. Chúng tôi liền lập tức
chuyển số tiền phúng điếu khoảng 5000 Mỹ kim cộng thêm 1000 nữa của một
gia đình khác cho để cứu sáu em này. Và chúng tôi cũng sẽ lo luôn thủ
tục mua xe lăn cho hai em ở Thị Nghè… [ĐKD, Đoạn Kết]
Kết cuộc, tìm “cây khuynh diệp”, như tìm cây “nhân sinh”,
không có nghĩa là tìm giải pháp cải tử hoàn sinh, từ bỏ cái chết, mà
thực sự chỉ là tìm hiểu lẽ sống, biết rõ ý nghĩa và giá trị hiện hữu của
cuộc sống, trong đó, khổ đau, chết chóc, sinh tử, nhân từ, nhân ái có
tính cách vô thường, vô hạn, vô ngã:
Trên
đường khuynh diệp, tôi đã đối diện những cánh chim đói khát gãy đường
bay, những cặp chân gỗ khập khễnh, những lằn roi cá đuối, những bờ vai
nhỏ quắp co trong cơn lạnh, những da thịt bị xâm lăng và hành hạ, những
cái chết vì sinh nhai, những xác thân vô tội bị hành quyết trên thân
cây, những bàn tay run rẩy nhận gạo, những nụ cười nhân ái, những ánh
mắt đầy tình người, những vòng tròn nhân quả … Tôi đã đi suốt một vòng
tròn. Đã tưởng mất mùi hương có tác động hồi sinh. Để tìm lại được nó ở
nơi bất ngờ nhất. Ở điểm bắt đầu.
Đường
khuynh diệp là thế. Không dài nhưng rất tròn. Vòng tròn tử sinh. Vòng
tròn tiếp trợ. Đây là vòng tròn của những người tìm người để thấy mình,
tìm ra rồi lại cho đi, cho đi nhưng vẫn còn đó, còn đó lại chia cho lẫn
nhau, một chút tình người, một chút tương lân, một nỗi cảm thông, đơn sơ
mà quyết liệt. Tôi đã đi tìm khuynh diệp ở vùng quá khứ. Nhưng khuynh
diệp vẫn ở quanh tôi, trong hiện tại. Và trên vùng tương lai. Của tôi.
Và của mọi người. [ĐKD, Đoạn Kết]
“Khuynh Diệp” là loại cây có lá thơm [diệp] dễ gây cảm xúc thoải mái [khuynh động]
nơi người gần gũi, tiếp nhận và hưởng thụ. Vậy về bản chất, “Khuynh
Diệp” trong phép ẩn dụ có thể được so sánh ngầm với một tác phẩm, tác
văn, vì cả hai đều tiêu biểu cho hương sắc mỏng manh, những giá trị chao
đảo, dễ gây xúc động. Nếu tích cực, đó là những bóng mát thơm tho,
những cành hoa mận cuối mùa, những tư tưởng tử tế, nhân bản. Nếu tiêu
cực, đó là những thể xác bị xô đổ, triệt hạ vì căm thù, trục lợi, ghen
ghép [khuynh hãm, khuynh tâm] với những căn phận hẩm hiu, thua kém [khuynh phúc, khuynh trắc].
Tác
phẩm nhân văn chân chính, tự nó không mùi, không sắc, vô thường, vô
hạn, vô ngã. Con người tiêu thụ lại muốn tròng vào cổ nó những hạn hẹp
nô tì, phế phán cho điểm, sau khi trục lợi, buôn chữ bán danh.
Vậy
muốn nguyên vẹn, cuộc hành trình tìm “Cây Khuynh Diệp”, về mặt trước
tác, phải là tìm kiếm lại con đường sáng tạo. Khởi đầu bằng những thao
thức đa mang của tác giả. Giữa đường bằng cuộc trùng khởi tìm tòi vô
hạn, vô thường, vô ngã. Đến cuối đường, hay tại những trạm gặp gỡ, bằng
sự tham gia của độc giả qua đường, quá giang, tiếp tay, tiếp sức chiết
lá, ghép cành từ cây tư tưởng, để tự mình khai mở một cuộc hành trình
tiếp nối tìm hương vị “Khuynh Diệp” của chính mình. Khi người tìm
nguyên thủy không còn đó.
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
Đăng lần đầu Feb 8, 2010
Cập nhật Oct 17, 2015
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
Đăng lần đầu Feb 8, 2010
Cập nhật Oct 17, 2015
[1] Raintree County
(film) The novel was made into a 1957 film starring Montgomery Clift,
Elizabeth Taylor, Eva Marie Saint, Nigel Patrick, Lee Marvin, Rod Taylor
and Agnes Moorehead. It was adapted by Millard Kaufman and directed by
Edward Dmytryk. In the credits for the film, the author’s name is
misspelled (Ross Rockridge Jr).
[2] Raintree County is a novel by Ross Lockridge, Jr. published in 1948. It tells the story of a small-town Midwestern teacher and poet named John Shawnessy, who, in his younger days before his service as a Union soldier in the Civil War, met and married a beautiful Southern belle; however, her emotional instability leads to the destruction of their marriage.
[3] La Metro-Goldwyn-Mayer, dans l’espoir de renouveler le triomphe d’Autant en emporte le vent, avait acheté les droits du best-seller de 1 100 pages de Ross Lockridge Jr., Raintree County, écrit en 1948.
[4] “They say in Raintree County, there’s a tree, high with blossoms of gold, and you will find the raintree, the state of mind…or a dream…to in fall…”
[5] Suzanna: “Un arbre à pluie d’or? ..Et qu’arrive-t’il si on le trouve?”
[6] John: “Il ouvre toutes les serrures et guérit toutes les blessures?
[7] Suzanna: “J’ai longtemps cherché un arbre de la sorte?
[8] Jenny Do, «Đường Khuynh Diệp”, Viet Tribune, 3,2008; «Đường Khuynh Diệp”, Jennydando.blogspot.com [2008]. Phần trích dẫn ghi [ĐKD, Phần…]
[9] Autobiography. Memoir. Journal
[10] Độ chừng 15 trên khoảng 3 trăm loại khuynh diệp khác nhau từng được dùng làm dược thảo. Chất dầu khuynh diệp ép từ vỏ và lá có khả năng chữa được nhiều căn bệnh như cảm cúm, ho hen, khó thở, xưng cuống phổi, viêm mũi, bệnh tiểu đường, và cả các bệnh ngoài gia, nấm da v.v. Dầu khuynh diệp được dùng vào việc nắn bóp cơ thể, xoa dịu bắp gần (massage), hoặc dùng theo cách Aromatherapy hay điều trị bằng hương quý đột nhập cơ thể và tâm não qua khứu giác và vị giác.
[11] Đường Khuynh Diệp 1
[12] Trong lãnh vực đông y, danh từ “Thuốc Bắc” ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v., đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đảm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nắm lá khô, một muỗng bột rễ cây,… thay vì một chỉ, ba ly,… như ở thuốc Bắc. Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “xắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần. Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. (Mai Thanh Truyết).
[13] Lucien Dallenbach, Le récit spéculaire: essai sur la mise en abyme, Paris, Seuil, 1977.
[14] André Gide, Journal, 1889-1933, Paris, Gallimard, 1955, trang 41.
[15] “Killing Fields”
[2] Raintree County is a novel by Ross Lockridge, Jr. published in 1948. It tells the story of a small-town Midwestern teacher and poet named John Shawnessy, who, in his younger days before his service as a Union soldier in the Civil War, met and married a beautiful Southern belle; however, her emotional instability leads to the destruction of their marriage.
[3] La Metro-Goldwyn-Mayer, dans l’espoir de renouveler le triomphe d’Autant en emporte le vent, avait acheté les droits du best-seller de 1 100 pages de Ross Lockridge Jr., Raintree County, écrit en 1948.
[4] “They say in Raintree County, there’s a tree, high with blossoms of gold, and you will find the raintree, the state of mind…or a dream…to in fall…”
[5] Suzanna: “Un arbre à pluie d’or? ..Et qu’arrive-t’il si on le trouve?”
[6] John: “Il ouvre toutes les serrures et guérit toutes les blessures?
[7] Suzanna: “J’ai longtemps cherché un arbre de la sorte?
[8] Jenny Do, «Đường Khuynh Diệp”, Viet Tribune, 3,2008; «Đường Khuynh Diệp”, Jennydando.blogspot.com [2008]. Phần trích dẫn ghi [ĐKD, Phần…]
[9] Autobiography. Memoir. Journal
[10] Độ chừng 15 trên khoảng 3 trăm loại khuynh diệp khác nhau từng được dùng làm dược thảo. Chất dầu khuynh diệp ép từ vỏ và lá có khả năng chữa được nhiều căn bệnh như cảm cúm, ho hen, khó thở, xưng cuống phổi, viêm mũi, bệnh tiểu đường, và cả các bệnh ngoài gia, nấm da v.v. Dầu khuynh diệp được dùng vào việc nắn bóp cơ thể, xoa dịu bắp gần (massage), hoặc dùng theo cách Aromatherapy hay điều trị bằng hương quý đột nhập cơ thể và tâm não qua khứu giác và vị giác.
[11] Đường Khuynh Diệp 1
[12] Trong lãnh vực đông y, danh từ “Thuốc Bắc” ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v., đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đảm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nắm lá khô, một muỗng bột rễ cây,… thay vì một chỉ, ba ly,… như ở thuốc Bắc. Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “xắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần. Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. (Mai Thanh Truyết).
[13] Lucien Dallenbach, Le récit spéculaire: essai sur la mise en abyme, Paris, Seuil, 1977.
[14] André Gide, Journal, 1889-1933, Paris, Gallimard, 1955, trang 41.
[15] “Killing Fields”