Trái tim của một phóng viên Đức cho Việt Nam
Uwe Siemon-Netto - Với
cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến
này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách kinh điển của nhà báo, tương tự
như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng
về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những
người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về
những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn mải mê
giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh
trông như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là
một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với thân
thể biến đổi đi chỉ vì muốn tìm một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi
nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là phải đối mặt với
độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như
ngoài nông thôn biết đùm bọc lẫn nhau cùng những đàn trâu. Với trái tim
chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát
sinh và các vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về
hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng
Cộng sản nữa để mà trốn tránh. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi
hôi thối của những thi thể đang thối rữa...
Uwe Siemon-Netto
Uwe Siemon-Netto (uwesiemon.blogspot):
Sinh năm 1936 tại Leipzig, Germany. M.A. thần học hệ Lutheran t ại
Chicago. Ph.D. thần học và xã hội học về tôn giáo tại đại học Boston.
Hiện là giám đốc điều hành Trung Tâm Thần Học hệ phái Lutheran tại
Capistrano Beach, California.
Khởi sự viết báo từ 1956. Ký giả bán thời cho nhiều cơ sở báo chí khắp
nơi trên thế giới bao gồm Việt Nam với 53 năm kinh nghiệm phóng viên. Đã
xuất bản 5 đầu sách và nhiều tiểu luận.
Bài viết dưới đây là lời bạt cho cuốn sách viết về cuộc chiến Việt Nam theo trải nghiệm của tác giả: “Đức – A reporter’l love for a wounded people”.
*
Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015,
thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và
nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng." Ga xe lửa Huế, nơi một đầu
máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi
buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi
lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần
nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà
ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi
vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm
chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh
một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi
lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh
đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc
phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên
Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?
Tài xế xích lô chờ đợi các hành khách vô hình
trước cổng ga xe lửa đã ngưng hoạt động tại Huế
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được
thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và
các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước
Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân
tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình
và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ
quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của
Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng
phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ
nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến
trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng
không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính
của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là
một cuộc "giải phóng”. Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và
cho ai? Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà
nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi
tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự
do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì
đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một
triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam
bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000
người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền
Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là
một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một
triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó
có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn
thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn,
theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần
Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính
trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp
nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến
tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch
Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu
tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân"
phải được hiểu là cuộc "chiến tranh vì nhân dân." Thực tế không phải như
vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954
và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc
tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị
Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính
khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài
trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh vì nhân dân mà chính là chiến tranh chống lại nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp
quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất
dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là "vắng mặt
không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng
sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào
Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng
130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt
động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ
tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng
vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam
có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau
năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo
cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có
thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến
này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách kinh điển của nhà báo, tương tự
như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng
về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những
người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về
những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn mải mê
giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh
trông như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là
một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với thân
thể biến đổi đi chỉ vì muốn tìm một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi
nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là phải đối mặt với
độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như
ngoài nông thôn biết đùm bọc lẫn nhau cùng những đàn trâu. Với trái tim
chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát
sinh và các vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về
hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng
Cộng sản nữa để mà trốn tránh. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi
hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị
Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông
Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu
một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận
đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những
chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng
lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc
chiến mà họ đáng lý họ phải thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp thuộc loại học giả
sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ
tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng,
họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết,
tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị
kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi
đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc
Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại
hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của một vài đơn vị vô kỷ luật Hoa Kỳ
và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu
người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay
những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng
cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các
anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? Với tư cách một người Đức,
tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết
người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác
sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất
là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao
các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta,
làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà
Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động
đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định
một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ
Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải
thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử
xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel,
cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến
đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh
nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên
khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng
canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức
ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là đã hận thù cả. Sự thù hận chỉ có
thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên
là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa độc tài toàn
trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS
Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập
viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng
buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich.
Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của những
tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm những người còn sống sót mà tôi đã
phỏng vấn cho là bị ám ảnh hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời
gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ
thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một
hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ
bốn thập niên qua. Lý thuyết và quan điểm đưa ra về cái thảm hoạ ấy từ
trong tháp ngà của đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy
League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul
Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp
sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang
Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh.
Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để khoác lác ra oai. Cuộc gặp gỡ xẩy ra
trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi
tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối địch nhau
đã xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"
Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã
đánh bại chúng tôi, cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân... bằng các phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được
ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của
sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được
trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ.
Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở
thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn nhận định đúng và
hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn
trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt
buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê
tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả.
Nó sẵn sàng bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm
chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần,
nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt
trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binhMỹ chiến đấu
tại Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân
chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa dân
chủ và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng sự bi quan này
được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, khi quá khứ
được khép lại, tương lai luôn luôn được mở ra. Là một Ki-Tô hữu tôi
biết ai là Chúa tể của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào
những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi
không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại hậu quả tàn
khốc đó, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ
tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra
phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi
những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó rồi
sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên
ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở
lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?
From: The fruit of terror and the virtue of hope (Uwe Siemon-Netto)
Dịch giả Lý Văn Quý
*
Tưởng niệm
Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong
cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản, đặc biệt là:
- Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;
- Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc;
- Hàng triệu người đã bị xua đuổi ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá trình đi tìm tự do;
- Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng
lãnh oai hùng đã quyên sinh vào những giờ phút cuối cùng;
- Các thanh niên Nam, Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng
trong cái gọi là "chiến tranh giải phóng" nhưng đã không mang lại tự do
cho ai;
- 58.272 binh lính Hoa Kỳ, 4.407 Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam ;
- Các đồng hương người Đức, trong đó có BS Horst-Günther và Elisabetha
Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund Discher, GS Otto Söllner, Bá
Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều người khác đã đến như những
người bạn và phải trả giá bằng mạng sống của họ.
Uwe Siemon-Netto - Dịch giả Lý Văn Quý
Trái tim của một phóng viên Đức cho Việt Nam
Uwe Siemon-Netto
Dịch giả Lý Văn Quý
Giọng đọc VìTổQuốc
Video VongNgayXanh