Bà
tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo
sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của
bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó
không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn
ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện.
Chưa
nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những
con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán
lắm rồi.
Sách
của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đã thấy thích. Những cuốn tự
điển của Pháp, của Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách
khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách
học làm người, những sách triết…đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng
như cả một đội ngự lâm quân thông thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng
không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của ông tôi. Và vì vậy, bạn cũng
như tôi chỉ được phép đứng nhìn mà thôi.
Ông
tôi là một người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn
của bà) mê hơn cả vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”,
thì ông tôi tuy đã già nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như
các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi “ghen” cũng phải.
Ông
mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quý là ông tìm tới dù có
phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một mòn tiền lớn để “rước” người có
nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thõa chí. Như cuốn
Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào
đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đã phải lặn lội vào tận xứ Thủ
Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó,
chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà còn ốm một trận thừa
sống thiếu chết.
Cuốn
sách cũ đến nỗi như đã ngàn năm tuổi. Còn hơn một người chơi đồ cổ, ông
tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều thì giờ để
nài nĩ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này
quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ
đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói
như thể gan ruột của mình cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dõi
từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm bìa. Cho đến khi sách
được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực
như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết
lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận
tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến
nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục.
Đó là
với những sách cũ quý hiếm. Còn sách mới, ông lại “phá của” một cách
không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để
đọc và cho mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để
nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới
và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rủ và mê
đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ
mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn còn trinh trắng khi hãy
còn những lề chưa rọc.
Học
cách người xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có
phải vì thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có
một điều khiến ông băn khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có
một người nào đủ để ông tin tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to
xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một
đời chưa đụng tới một quyển sách nào, những đứa mà ông bảo là trong đầu
toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói là hôi thối ấy, còn lại
chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi
khi thô bỉ xúc phạm đến sách.
Ông
ghét nhứt ai đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán
chuyện, bạ chỗ nào cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới
lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đã tàn nhẫn xếp lại một góc
để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị
bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo
bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt trên đầu ngón tay.
Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo túi cơm. Lật
sách mà như thế có khác gì sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức. Phải
lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một
người đẹp đang ngủ.
Đối
với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho
nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn mình”như
con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng
những sạch ở phần xác mà còn sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những
giận hờn phiền muộn hay những ý nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí
trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh
mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương
của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở
hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ
của mình được dọc ngang trên biển học mông mênh.
Đương
nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một
nơi khả kính, thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi
dám động tới. Bảy mươi năm sống trên đời của ông thì hết một nửa là ở
trong cái gian phòng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những
tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng được
ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc một quyển sách nào trong
tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu gìn
giữ theo cách gần như tôn thờ, thì đọc chẳng ích lợi gì mà còn “giết”
sách. Theo ông, đọc vì tò mò, đọc như “luà cơm”, đọc như ngốn ngấu thì
cả đầu óc mình chỉ là một bãi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị
vất ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó
bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.
Năm
tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc
trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ
kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ý ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon
rượu bổ, mà bằng những phong bì ít nhất cũng đủ cho ông mua được một hai
quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên 5 được nhận tiền
lì xì. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những chồng sách mà ông ao
ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái bìa, ngắm nghía từng
con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác giả
Saint Exsupéry, Bùi Giáng…Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như
ông còn có đủ tiền thì cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông
sẽ ngồi giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già
đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa.
Sau
tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn còn đau
đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một
cách oan nghiệt.
Khi
người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như
một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ
trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động”
thì hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử hình.
Ông
suy nghĩ lung lắm, không phải để tìm cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy
nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với lòng tin yêu và
kính trọng của ông.
Một đêm thức trắng.
Rồi hai đêm thức trắng.
Ngày
thường ông bình tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc
mặt ông đỏ bừng và mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng
ai dám hỏi nói gì với ông. Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng
đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng.
Cuối cùng ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt sách.
Một quyết định cháy lòng.
Tôi
cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê
hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt
xuống đất, không được nặng tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một
em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh
thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông
mới nghe được mà thôi.
Sách
được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không
muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra
từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước
khi chết là tội ác. Một người coi sách là sinh vật sống, để cả đời nâng
niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính bàn tay của mình, bạn phải biết
là ông tôi đã đau khổ đến nhường nào.
Đó là
một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi
trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm
liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một
cây đuốc giữa trời, khấn khứa rì rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy.
Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết
liệt như cái cách các võ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng.
Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đã bắn vọt lên đầu ngọn tháp.
Đã nghe mùi mực và mùi giấy.
Đã nghe tiếng vặn mình của các bìa sách.
Đã nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.
Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn.
Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.
Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.
Ông
tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một
giọt nước mắt cho dù là vì khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng
Đức đang ngồi kiết già với ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông
cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc vì lo sợ. Đến một
lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước thẳng vào ngọn lửa.
Ông chết theo sách.
Đó là một cái chết đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.
Nhưng
ông chưa muốn chết vì ông còn phải để tang cho sách như một đứa con chí
hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn
ngồi đợi cho tất cả biến thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao,
cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà
tôi than thở là nghe tiếng dép của ông kéo lê lệt sệt mãi tới tận sáng.
Hôm
sau, ông bảo tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để
một ngăn tủ. Ông khóa lại và dặn không được dùng vào việc gì khác ngoài
việc gìn giữ những chiếc quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy
những hộp tro vẫn đứng im đó như một nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi
cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có cảm giác như hồn ông và
hồn sách cùng lảng đảng bay về.
Vẫn
chưa hết chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi
làm cho ông những tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài
những quyển sách bị đốt, cứ mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy
trăm cái bia như thế, phải mất cả tuần mới làm xong. Những mộ bia không
có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử. Chúng được xếp lên kệ thay cho
hàng trăm cuốn sách đã chết tập thể.
Cả viện sách của ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.
Ông
trịnh trọng chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như
trước bàn thờ tổ tiên. Trong những lời rì rầm, nhiều lúc bỗng vang lên
như tiếng khóc, ta là người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái
tội không bảo vệ được sách, tội với các tác giả, tội với những thợ sắp
chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.
Ông biết ơn họ bao nhiêu thì bây giờ ông ray rứt vì mình có tội bấy nhiêu.
Từ đó
ông ăn ít ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm
hằng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu bìa, co chữ,
tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như
sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi tìm được
sách quý, hay mua được những sách hay. Những lần như thế, ông tự thưởng
cho mình khi thì một bình trà, lúc một chung rượu hay tách cà phê và
những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.
Rồi
đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám.
Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn
ông những nỗi buồn lo khôn nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm thì
cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có
những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước
như vầy tôi đã để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi. Bà tôi cay đắng,
ai mà có con mắt sau lưng.
Buổi
chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông
thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không
phải, ông nói, da ông thế nào, đã ngã thành màu đất chưa? Không biết da
màu đất là màu gì, tôi nói đại, chưa ông à. Ngã màu đất là sắp chết đấy
cháu, ông nói. Ông đã có ý để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao
được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ.
Nghe
ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh
lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đã chết từ lâu nhưng chưa
chôn. Hay là ông đã chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đã cùng với hồn sách
nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và
thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những
quyển sách biết yêu quý tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi
mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.
Tôi
vừa buông tay ra thì ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một
cuốn sách. Tính ra, ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày.
Khuất Đẩu