NGƯỜI VỢ LÍNH Ở THỦ ĐỨC
Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ
Mùa
xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị
Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là
anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.
Cha
làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ
thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở
Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu
là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi
trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm
sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này
là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà
trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô
gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung
sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui
mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ
gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà
Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ
vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh
trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30
tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức
lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù
sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người
vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ
và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng
của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi
tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ
sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình
có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở
thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ
trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương
Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời
chỉ là người vợ lính.
Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Hồ
Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia
Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường
bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến
thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ
quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh
trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại
mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ
binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ
trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp
Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21
từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh
tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng
nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá
Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp
cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội
trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến
của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết
đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau.
Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan
kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon.
Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của
đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận
địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15
bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long
Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn
ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa
Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này
là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu
hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện
chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay
trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các
đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan
hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi
còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện
về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng
tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.
Giây phút cuối của Chương Thiện,
Bà
Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh
nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một
thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:
“Kể
lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau
ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích.
Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30
tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở
Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ
lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con
kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem
con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con
vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố
ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh
không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía
dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi.
Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không
bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em
và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi
tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế
nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị
bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng,
nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi
coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng.
Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo
thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác
hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi
lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt
mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau
anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng,
không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội
trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu
khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác
hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không
cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem
chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem
về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro
cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau
khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây
giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “
“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ
con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở
trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai,
không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau.
Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy
nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”
Chuyện
đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng,
tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn
sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời
từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em
thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi
con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá
sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn
máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở
trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không,
em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng
không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai
biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc.
Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có
nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết
nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là
tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để
lên tấm bia lịch sử”.
Tôi
nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu
có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi.
“Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
”
Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng
có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi
anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển.
Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt
biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”
Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh
nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu.
Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở
Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt
đời vẫn chỉ là vợ lính. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh
nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn
thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời.
Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền
lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên
kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi
sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Giao Chỉ-SJ