Những ai mê các ca khúc trữ tình của nhạc sĩ lừng danh Văn Phụng đều biết đến giọng ca mượt mà của ca sĩ Châu Hà, người bạn đời gắn bó và cũng là nguồn cảm hứng sáng tác của ông trong rất nhiều tác phẩm.
Sinh ra trong một gia đình khá giả, bố người Bắc, mẹ là người miền Nam ở Mỹ Tho, ca sĩ Châu Hà thủa nhỏ đã theo học một trường của các nữ tu tại Sài Gòn và quen hát Thánh ca. Bà học đàn piano với một thầy nổi tiếng nghiêm khắc, nên bà hấp thụ được rất nhiều.
Ca sĩ Châu Hà nói thoạt đầu bà ôm mộng làm nhạc sĩ, nhưng có lẽ số mệnh đã đưa đẩy khiến bà trở thành một ca sĩ và bà theo nghiệp cầm ca chắc cũng từ cái gene của bố mẹ.
“Mẹ tôi biết nhạc, đánh đàn cũng hay lắm. Ông cụ thì nghe “cô đầu”. Ổng mê cô đầu nên tối tối ông đi cô đầu nghe hát. Mẹ tôi ở nhà đánh đàn. Dòng họ bên ngoại tôi các ông các bà hát vọng cổ hay lắm thành ra tôi nghĩ rằng có ảnh hưởng của bên ngoại.”
Nhờ năng khiếu ca hát trời cho, khả năng đàn piano thành thạo và rành nhạc lý, nên ca sĩ Châu Hà không gặp khó khăn gì trong việc ca hát. Dù gặp một bài mới, hay không có đàn kèm theo, bà vẫn hát được một cách dễ dàng. Bà lại là người mê nhạc Tây phương, cả cổ điển lẫn hiện đại.
“Ông Tino Rossi, ngày xưa tôi có một đĩa hát trong đó ông hát bản Tristesse của Chopin, J’attendrais, La vie en rose…khoảng đâu 6, 7 bài. Ngày xưa tôi thuộc hết những bản nhạc đó. Bài J’attendrais ông hát hay lắm. Giọng ông như là mây, như là gió, nhẹ như sương. Ông hát hơi thở của ông nó êm, nó mềm, nó tình tứ, hơi dài, ấm áp, trong veo. Ông Perry Como cũng thế. Ông Perry Como là người Mỹ, giọng ông cũng như vậy. Rồi ông Nat King Cole, bà Patti Page. Giọng Perry Como, Nat King Cole nghe đến là người cứ nhũn ra. Cận đại có Julio Iglesias nghe ông người mình nó mềm ra. Tôi cũng học nhiều ở họ, từ hơi thở, từ cái ngắt câu, từ cách ngân, phải có ngân, phải có nuance tức là có lớn, có nhỏ, có trầm bổng. Hát là cả một nghệ thuật rất khó, nếu trời không cho không làm được,” bà say sưa kể.
Khả năng ca hát của ca sĩ Châu Hà không chỉ dừng lại ở chất giọng, ở kỹ thuật, mà còn cả một nghệ thuật chuyển tải âm nhạc qua nhiều ngôn ngữ khác nhau.
“Tôi có một thời gian vài năm tôi hát cho các sĩ quan cao cấp quân đội Mỹ. Ban nhạc của chúng tôi chơi trên nóc của lầu Rex. Tôi với anh Văn Phụng và Kim Tước hát ở đó khá lâu. Quân đội Mỹ, Hiệp Chủng Quốc thì thành ra đủ các giống người. Có Đại Hàn tôi hát tiếng Đại Hàn. Có người Hawaii tôi hát tiếng Hawaii. Tổng cộng, tôi hát đến 7 thứ tiếng. Có khách gì, tôi hát tiếng đó,” bà cho biết.
Hồi tưởng lại kỷ niệm lần đầu gặp gỡ nhạc sĩ Văn Phụng, bà còn nhớ như in từng chi tiết.
“Sự thật, đúng sự thật là năm 1952, ba anh Văn Phụng mướn nhà của ba tôi. Một hôm anh Văn Phụng đến thăm ông cụ, anh nghe tiếng đàn của tôi, anh rón rén, anh tò mò, anh lên lầu. Lúc đó tôi ngồi đàn, hong tóc dài của tôi cho khô, tóc tôi dài chấm dất. Vừa đàn nhưng tôi thoáng thấy có bóng người nơi cửa, tôi quay lại tôi thấy anh Văn Phụng. Anh nói ‘Xin lỗi, tôi là Văn Phụng, con cụ Bảng dưới nhà, nghe tiếng đàn của cô tôi đánh bạo lên đây để làm quen.’ Lúc đó tôi không biết Văn Phụng là ai vì tôi ở miền Nam nhiều hơn ở ngoài Bắc. Ông hỏi tôi cô đàn bài gì đó? Tôi mới nói bản nhạc tên là 'It's a sin to tell a lie' của Eddie Duchin một nhạc sĩ Mỹ tôi học ở miền Nam. Tôi đàn anh thấy hay quá. Ảnh bảo: ‘Vậy cô có thể cho tôi đàn nhờ một tí?’ Ảnh nhìn bản nhạc ảnh đàn hay lắm. Ảnh đàn xong rồi tôi mới thấy tôi múa rìu qua mắt thợ. Tôi khen ông thì ông đàn luôn bản nhạc ‘Suối tóc’. Ông đàn xong ông không biết đặt tên bài ấy là bài gì. Ông chỉ đàn âm điệu của bài ‘Suối tóc.’ Đàn xong rồi, ông quay ra nhìn tôi ông bảo ‘Mái tóc cô đẹp quá, thật là suối tóc.’ Tự nhiên ông buộc miệng ông nói như vậy. Thế từ đó đặt tên ‘Suối tóc’ cho bản nhạc đó. Thế thì thôi chúng tôi không gặp nhau nữa là vì năm đó là năm 52 mà mãi đến năm 54 mới di tản. Từ 52 đến 54 chúng tôi không có gặp nhau vì có quen nhau đâu, có bạn bè gì đâu. Lúc đó ông đã có vợ rồi. Tôi đâu có màng đến người có vợ. Lúc đó tôi mới 18 tuổi, còn trẻ quá. Nhà ông cụ, bà cụ tôi khá giả thành ra cụ cứ phải chọn lựa người đúng cho mình. Người ta lầm, người ta tưởng thời gian đó chúng tôi đã lấy nhau rồi hay đã yêu nhau rồi bị gián đoạn. Cái đó không đúng đâu.
Châu Hà - Suối Tóc (Văn Phụng)
Ca sĩ Châu Hà kể đến năm 1955, sau khi vào Sài Gòn, bà được người anh nuôi là Đoàn Văn Cừu, Tổng giám đốc Đài phát thanh Việt Nam, dành cho 1 giờ mỗi ngày để trình diễn trên đài phát thanh khi đài tăng cường giờ phát sóng từ 8 tiếng lên thành 24 tiếng một ngày.
“Tôi lập một ban nhạc để chơi nhạc trong một giờ đồng hồ phát thanh. Có tiền, có phát lương đàng hoàng, 300 đồng một bài. Tự nhiên trong một ngày đó, tên tuổi của tôi vang lên ở làn sóng điện, một cách không phải thi cử, tuyển lựa gì cả. Cứ thế là hát, cứ thế là tổ chức ban nhạc của mình. Tự nhiên trời cho tôi hưởng đúng giai đoạn đài phát thanh mở ra 24 tiếng một ngày thành ra tôi đâm ra đắt hàng. Tôi hát từ sáng cho đến tối. Sáng sớm 7, 8 giờ đã hát rồi cho đến 12 giờ đêm vẫn còn hát. Cứ như là cắm dùi ở đài phát thanh. Thành ra tôi thành ca sĩ thôi.”
Cũng khoảng năm 1955, ca sĩ Châu Hà gặp lại nhạc sĩ Văn Phụng khi ông từ Nha Trang vào Sài Gòn.
“Chúng tôi găp nhau, gặp nhau cũng chỉ là bạn thôi nhưng mà ông sáng tác ra thì ông đưa tôi hát bất cứ bản gì ‘Mưa trên phím ngà,’ hay ‘Tiếng dương cầm.’ Tất cả những bản gì mới sáng tác ra là Châu Hà hát. Rồi ông Văn Phụng có một ban nhạc với tôi, Kim Tước, Mộc Lan, Nhật Bằng và Ngọc Giao. Chúng tôi hát với nhau suốt nhiều năm,” bà thuật lại.
Nhạc sĩ Văn Phụng và ca sĩ Châu Hà trở thành đôi bạn đời vào năm 1963 và không xa rời nhau cho đến khi ông Phụng qua đời vào ngày 17/12/1999 tại bang Virginia, Hoa Kỳ, trong sự tiếc thương vô hạn của vợ con và bạn bè. Bà Hà nói sau khi ông Phụng mất, nhiều năm liền bà không dám nghe nhạc của chồng sáng tác vì niềm đau khôn nguôi.