Cái chết của một ngôn ngữ : tiếng Việt Sài Gòn cũ
Trịnh Thanh Thủy
Cái chết của một ngôn ngữ : tiếng Việt Sài Gòn cũ
Trịnh Thanh Thủy
Diễn đọc Dạ Hương & Nguyễn Đình Khánh
Nhắc đến tiếng Việt
Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ
mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày Việt Nam thống nhất năm 75,
miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi,
kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một
số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự
thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng
trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Người dân miền
Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới.
Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con,
xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược,
chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao
tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực
công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn
thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ
sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v...dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc
trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.
Có những từ ngữ miền
Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng
nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ "quản lý" là trông nom,
coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc
dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người
con gái bằng câu: "Anh xin quản lý đời em". Hoặc từ "chế độ"
cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như "chế độ dân chủ".
Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như "chế độ xem",
"chế độ bao cấp". Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản
- giản đơn; bảo đảm - đảm bảo; dãi dầu - dầu dãi; vùi dập - dập vùi. v.v...
Song song với việc
thống nhất đất nước, chính quyền Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi
đó là "tiếng Việt toàn dân". Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa
học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc
hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy
định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết
nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được
ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.
Khi tiếng Việt được
thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu
chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt
miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ
thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng
quân, tác chiến, địa phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức(hữu)
trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám,
binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu
mộ, v.v… hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ
thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan.
Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như:sổ gia đình, tờ khai gia đình,
phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới
từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố,
du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ,
tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật,
v.v...
Ở hải ngoại, khi bắt
đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động
tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại
cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu
với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương
pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với
quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết
cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình
đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt
đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển,
cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước
đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc.
Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ
ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người
lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Thế hệ chúng tôi được
người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái
gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa
kia, cái gì cũng một nửa.
Do đó, nhiều lúc tôi
phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những
từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên
thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn
như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực
văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền
thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của
quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận
liên miên, dai dẳng.
Các cơ quan truyền
thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản
đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là "chữ của Việt Cộng"
và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới
truyền thông rất dễ bị chụp mũ "cộng sản" nếu không khéo léo trong việc
đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân
xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động
chính là cộng đồng địa phương đó.
Trong cuốn DVD chủ đề
30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng
người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy
Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư
nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam
California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt
ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều
mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ
Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ
và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng
Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên
cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn
văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư
nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông
và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng
đồng lưu vong. "Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập
học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện
nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu
giáo tiếng Việt" (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Về vấn đề giáo trình
thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn
và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có
lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy
tiếng Việt tâm sự với tôi: "Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình
tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu
dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy
phải đổi sách thì phiền chết."
Sự dị ứng và khước từ
việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt
ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của
kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người
Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng
là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng
Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!
Việc người Việt hải
ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài
nguyên do:
Thứ nhất là do sự
khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn
chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản
nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.
Thứ hai, sự khác biệt
của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một
thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại
quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:
Trong nước:
Tàu ngầm hạt nhân
Nga bốc cháy
Interfax dẫn một nguồn
tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ
lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát
ngôn viên hạm đội này cho hay: "Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp
năng lượng phần mũi tàu.
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)
Ngoài nước:
Hỏa hoạn trên tàu ngầm
Nga
Hải quân Nga nói rằng
lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có
nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân
hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)
Một người Việt hải
ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ
ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện,
hệ thống cấp năng lượng...
Hơn thế nữa, Việt
Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về
điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều
từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch
hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán
nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu
nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch.
Trong việc phiên dịch,
theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay
phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên
dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc
phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước
là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm
thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ nhận ra hơn.
Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này.
(http://i12.photobucket.com/albums/a215/unisom/thualuonJPG.jpg)
Tôi thấy một hai địa
danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì,
ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang
Oregon, nước Mỹ!
Ngôn ngữ chuyển động,
từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu.
Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu
không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị
lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị
thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống
đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã
xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp
chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong
nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày
bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những
nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt,
giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa.
Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho
thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có
khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi,
không chịu thì phải ráng mà chịu.
Sự ra đi của một chế
độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng
có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một
ngôn ngữ". Đau lòng lắm thay!
Trịnh Thanh Thủy
http://baomai.blogspot.be/2012/05/cai-chet-cua-mot-ngon-ngu-tieng-viet.html