Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương
Tác giả: Trần Trung Đạo - Hoa Pensee Trình bày
Một ngày hè như thế này 29 năm trước, người anh cùng sở làm và cũng
cùng quê Đà Nẵng ghé qua hỏi tôi có thích đi Côn Đảo một chuyến với anh.
Không giống như khi được các anh chị khác rủ đi thăm miền bắc trong
những lần họ nghỉ phép về thăm nhà mà tôi đã từ chối trước đây, Côn Đảo
có một hấp lực cực mạnh khiến tôi gật đầu không chút gì ngần ngại. Chiếc
ghe vượt biên anh đóng sắp hoàn tất và đã hứa dành cho tôi một chỗ.
Nghĩ đến việc ra đi không hẹn ngày trở lại, thăm Côn Đảo là dịp hiếm hoi
không thể bỏ qua. Côn Đảo là đất lịch sử của cách mạng Việt Nam, điểm
hẹn của những tâm hồn yêu nước và cũng là nơi nhà cách mạng Phan Chu
Trinh từng tả “Bốn mặt dày vò oai sóng gió / Một mình che chở tội non
sông” trong bài thơ “Đập đá Côn Lôn” nổi tiếng của ông. Người anh cùng
sở làm lo hết các phương tiện cần thiết, và như thế chúng tôi đi. Anh có
vài việc phải đi, còn tôi chỉ đi theo cho biết chứ không làm gì cả.
Khi anh làm xong việc, thời gian còn lại anh em chúng tôi đi vài nơi
trên đảo. Côn Đảo ngày chúng tôi đến còn rất hoang vắng. Những khu tù
chính trị đã giải tán từ lâu. Tù chính trị mới không bị đưa ra đây mà
vào Chí Hòa, Phan Đăng Lưu hay các trại tù miền Bắc. Các khu trại giam
Côn Đảo đã trở thành một viện bảo tàng nhưng ít có người thăm. Bên cạnh
những xà lim nơi các đảng viên Cộng sản cấp trung ương từng bị giam giữ,
Côn Đảo còn có những khu nổi tiếng vì được báo chí phản chiến Mỹ và
Việt khai thác tận tình như chuồng cọp, chuồng bò. Khu chuồng cọp được
xây từ thời thực dân, cũ kỹ, kích thước rộng bằng những lớp học nối tiếp
nhau. Đặc điểm của khu chuồng cọp là phòng giam không có mái che mà chỉ
có những bờ tường dày và thanh sắt lớn. Chị coi sóc ở đây, vốn là một
tù nhân Côn Đảo, cho biết trên bờ tường dựng sẵn nhiều thùng vôi bột,
nếu tù nhân la ó, phản đối, trật tự tù sẽ đổ vôi xuống.
Trên đường ra về chúng tôi đi theo chị coi sóc nhà tù đến nghĩa địa
Hàng Dương. Nắng đã dịu nhiều. Mặt trời đang xuống dần bên kia đỉnh núi.
Được gọi là Hàng Dương có lẽ vì chung quanh nghĩa địa có rất nhiều
dương liễu. Nghĩa địa có nhiều khu. Mỗi khu có vài trăm ngôi mộ. Chị
trịnh trọng giới thiệu một ngôi mộ mà chị gọi là rất linh thiêng: mộ chị
Võ Thị Sáu. Tôi không biết gì nhiều về chị Sáu ngoài bản nhạc bắt đầu
với “Mùa lêkima nở, ở quê tôi miền đất đỏ” và đọc đâu đó chuyện chị bị
xử bắn khi còn trong tuổi vị thành niên. Tấm bia trên mộ chị Sáu hướng
về phía biển và nỗi bật lên vì ngày đó đã được xây cao hơn các ngôi mộ
khác. Phía sau mộ chị Sáu có một cây dương liễu cụt ngọn, cằn cỗi, trên
tàn cây có những chồi xanh nhú lên. Việc một cây bị chặt ngọn nên sinh
ra những nhánh non là chuyện bình thường nhưng qua lời giải thích của
chị hướng dẫn thì đó là một điều kỳ diệu, một dấu chứng linh thiêng,
điềm báo của một cái cũ tàn đi nhưng những cái mới ra đời. Ngay cả một
cây dương liễu cũng được giải thích bằng lý luận và niềm tin Cộng Sản.
Anh tôi không thích cảnh nghĩa trang buồn tẻ nên đã đi dạo nơi khác.
Cả chị hướng dẫn cũng đi ra ngoài. Tôi ngồi một mình nhìn mấy trăm ngôi
mộ, có tên và không tên, được đắp và không được đắp, cao thấp không đều.
Bên cạnh một số mộ có bia, tên tuổi và vừa được chỉnh trang, hẳn là của
các đảng viên Cộng sản cao cấp, rất nhiều ngôi mộ không có ngay cả tấm
thẻ gỗ ghi tên, cỏ mọc đầy sau nhiều năm chưa được một lần chăm sóc.
Phần lớn các ngôi mộ trong nghĩa địa Hàng Dương là dấu tích tàn ác của
thực dân Pháp. Thời Việt Nam Cộng hòa, chuyện ở tù Côn Đảo cho đến chết
là chuyện hiếm hoi. Hầu hết tù chính trị chỉ ở một thời gian ngắn trước
khi được đưa ra Thạch Hản, Thiện Ngôn, Lộc Ninh, Bồng Sơn để trao trả
về phía bên kia như đã ghi lại một cách chi tiết trong tác phẩm ký sự Tù binh và hòa bình của nhà văn Phan Nhật Nam.
Hôm qua, khi bắt đầu viết bài này tôi vào Google tìm mộ chị Võ Thị
Sáu. Cây dương liễu đã chết và được thay vào đó bằng cây phượng đỏ. Ngôi
mộ của chị cũng được xây bằng đá đen, cao hơn ngôi mộ cũ nhiều và không
phải sơn màu vôi trắng như lần tôi đến. Nghĩa địa Hàng Dương bây giờ là
một trung tâm du lịch, màu sắc lòe loẹt, không còn những mộ cỏ hoang
vu, những con đường đất hẹp và những hàng dương cằn cỗi chung quanh. Tôi
không cảm thấy chút nào xúc động khi nhìn lại cảnh nghĩa địa Hàng
Dương mà chỉ tội nghiệp cho các em học sinh đang sắp hàng vào xem các di
tích được gọi là cách mạng ở Côn Đảo. Các em đi xem kịch mà tưởng mình
đang tìm về lịch sử cha ông.
Một trong những đặc điểm của chế độ Cộng sản là lừa dối. Không phải
chỉ Việt Nam mà mọi quốc gia Cộng sản đều như thế. Khi chế độ Cộng sản
Đông Đức sụp đổ, báo chí khám phá trong cơ sở dữ liệu của cơ quan an
ninh Stasi một hệ thống lừa dối có tầm vóc quy mô ngoài giới hạn đạo đức
của con người. Việc nghi kỵ, lừa dối không chỉ ở nằm trong hệ thống
đảng, các cơ quan nhà nước, mà cả trong mỗi gia đình ruột thịt, máu mủ
thân yêu. Anh lừa dối em. Vợ lừa dối chồng. Cha mẹ lừa dối con cái. Cháu
chắt lừa dối ông bà. Lừa dối là phương tiện duy nhất để tồn tại trong
xã hội Cộng Sản.
Tại Việt Nam cũng thế. Vở kịch tuyên truyền mà Đảng đã đóng suốt mấy
chục năm qua làm thui chột nhận thức của nhiều thế hệ Việt Nam. Từ
chuyện Lê Văn Tám lấy thân mình làm đuốc đến chuyện Tôn Đức Thắng kéo cờ Cộng sản trên Hắc Hải đều là những chuyện hoang đường nhưng nghe riết cũng quen tai, nghe riết nên tin là chuyện thật.
Có một thời không ít người dân miền bắc còn tin rằng những khẩu CKC,
AK47 của mấy chị dân quân đã từng bắn hạ những F-4 Fantom, F-111 của
Mỹ. Theo lời kể của cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov,
nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Xô tại Việt Nam trong một
bài báo trên tờ Pravda nhân dịp đánh dấu 30 năm cuộc chiến Việt Nam chấm
dứt, Liên Xô đã gởi nguyên một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí
và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Xô đã chết trên đất bắc. Những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ F4 Fantom của Thượng Nghị Sĩ John McCain,
cũng từ hỏa tiễn của các đơn vị Hồng quân Liên Xô chứ không phải từ “Bộ
đội phòng không anh hùng”, nói chi là các chị dân quân núp bên bờ ruộng
như trong mấy bức ảnh tuyên truyền của đảng.
Cũng theo lời kể của cựu thiếu tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy
lực lượng phòng không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970, Việt Nam
chỉ là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Xô. Họ muốn đích thân xử
dụng vũ khí để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa
Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này. Cuộc
chiến đã tàn, chế độ cũng đã tan, ngọn đèn đời sắp tắt, những người lính
già Nga chẳng bị áp lực nào để phải nói dối, để tuyên truyền, để bảo vệ
cho đảng, hay cho cả chính mình. Họ chỉ còn kỷ niệm, và kỷ niệm của
tuổi về chiều thường thành thật, trong sáng như những ngày mới lớn.
Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam
để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng
đai an ninh của Trung Quốc. Tội ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với
dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải
cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến
trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn
sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện.
Máu đổ, thây rơi, nhà tan, cửa nát ở Hà Nội, Hải Phòng là điều có
thật. Những mất mát đau thương vô cùng to lớn của đồng bào miền Bắc đã
chịu đựng dưới đạn bom Mỹ là điều có thật. Căm thù, phẫn uất vì thế là
những phản ứng tự nhiên. Tuy nhiên không phải chỉ vì đế quốc Mỹ đã đơn
phương xâm lược Việt Nam như các thế hệ sinh viên học sinh đã và đang
được dạy. Hơn ba mươi năm là một thời gian đủ dài để đồng bào miền bắc,
các thế hệ trẻ miền bắc có gia đình chịu đựng đau thương bất hạnh trong
chiến tranh, nhìn lại cuộc chiến một cách khách quan và so sánh với thực
tế đất nước để qua đó biết rõ những ai và học thuyết nào chính là
nguyên nhân của chiến tranh, độc tài và chậm tiến hôm nay.
Đảng Cộng sản có thể tùy thích tạo ra hàng trăm đảng viên cỡ Lê Văn
Tám, Tôn Đức Thắng. Đó là chuyện nội bộ của đảng nhưng họ không có quyền
biến Côn Đảo thành tài sản riêng của đảng, không có quyền mê hoặc của
các thế hệ trẻ Việt Nam bằng các mẫu chuyện hoang đường kiểu Lê Văn Tám
như bộ máy tuyên truyền Liên Xô đã từng tô điểm lên một cậu bé nhà nông
Pavlik Morozov bất hiếu trước đây. Côn Đảo cũng không phải là đất hương
hỏa của Marx, Lenin để lại cho đảng Cộng sản Việt Nam mà là đất thiêng
của cách mạng Việt Nam nơi nhiều thế hệ đã lấy xương thịt mình làm phân
bón cho mầm xanh tương lai dân tộc.
Trong nghĩa địa Hàng Dương, bên chiếc cầu đá phía bên phải dinh chúa
đảo, trước những xà lim chật hẹp, một ngày không xa, các thế hệ Việt Nam
sẽ đến đó, không phải để nghe kể công, nghe tuyên truyền mà đến để im
lặng cúi đầu tưởng niệm các anh hùng dân tộc.
Họ là ai? Họ là những đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội, Phong trào
Đông Du, Phong trào Duy Tân, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân
Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập
hiến, Đại Việt Duy dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.
Họ là ai? Họ là tín đồ các tôn giáo, nhất là Cao Đài và Hòa Hảo, hai
tôn giáo được ra đời tại miền Nam, có truyền thống kiên quyết chống cả
thực dân lẫn Cộng sản.
Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết vài lần trên diễn đàn
này, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu
là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến
thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó,
vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của
các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa
phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng
Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia
nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập
Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những
thập niên đầu của thế kỷ 20. Ông bà chúng ta có súng dùng súng, có gậy
dùng gậy, và trong nhiều trường hợp chỉ là những bàn tay không gầy yếu.
Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một
chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất
phát , nhưng công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi
không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu,
độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc
chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày
nay.
Tôi tin, phần lớn những người yêu nước đã chết trong giấc mơ về một
Việt Nam hòa bình, độc lập chứ không phải trong giấc mơ về một xã hội
Cộng sản đại đồng. Người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh
thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay
cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị
lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, dân tộc sẽ ghi ơn họ một cách công bằng.
Tôi tin, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó
là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng của một dân tộc bị nô lệ
đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Trong suốt gần một thế kỷ
trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam
đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Ngoài một Nguyễn An Ninh
để lại thịt xương, một Trần Cao Vân, một Phan Chu Trinh để lại những bài
thơ viết bằng máu và mồ hôi trong những ngày đập đá, còn có hàng ngàn,
hàng vạn đồng bào đã chết trong âm thầm, không để lại họ tên.
Nhưng cho dù họ có để lại đủ họ tên đi nữa, các thế hệ Việt Nam sau
1975 cũng không có quyền biết đến họ, không có cơ hội để cám ơn họ, để
thắp một nén hương, và phần mộ họ một mai có thể sẽ bị san bằng theo mưa
nắng. Đảng Cộng sản không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà
còn cố tình nhuộm đỏ cả lịch sử.
Côn Đảo ngày nay gắn liền với tên tuổi của các đảng viên Cộng sản
trung ương Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Văn Linh, Lê Quang Vịnh v.v. Các em học sinh đang sắp hàng chờ
vào xem những xà lim kia làm sao biết được, với số đảng viên vỏn vẹn 5
ngàn vào mùa thu 1945, đảng Cộng Sản, dù bị bỏ tù và chết gấp mười lần
trong hai cuộc chiến, cũng không thể bằng với con số khoảng 200 ngàn
người Việt Nam yêu nước đã từng ở tù Côn Đảo theo nhiều nguồn ước lượng.
Các em cũng không biết rằng hàng trăm lãnh tụ cách mạng không Cộng
sản mà đức độ và tài năng bao trùm nhiều lãnh vực như Đức Huỳnh Giáo
Chủ, Trương Tử Anh, Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch,
Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp v.v., đã không ở tù hay
chết ngoài Côn Đảo chỉ vì họ bị Cộng sản thủ tiêu ngay tại đất liền.
Khác với đảng Cộng sản được thành lập từ nước ngoài theo chỉ thị của
quốc tế Cộng sản và nhiều đảng viên được đưa sang Trung Quốc, Liên Xô
huấn luyện một cách bài bản nhằm thực hiện các mục tiêu ngắn hạn cũng
như dài hạn của trung ương đảng đề ra, phần lớn đảng phái không Cộng sản
đã sinh ra và lớn lên ngay trong lòng dân tộc với tất cả khó khăn,
thiếu thốn về mọi mặt. Họ không chỉ bị chết dưới lưỡi đao phong kiến,
máy chém thực dân mà còn chết trong bàn tay của những người cùng máu mủ
với mình.
Đọc lại diễn tiến của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, quá trình thành lập
các đảng phái không Cộng sản và lắng nghe các nhà cách mạng trải lòng
qua thơ văn đẫm đầy máu lệ, mới cảm thấy lòng yêu nước của thế hệ cha
ông thật vô bờ bến.
Bằng hành trang duy nhất trên vai là lòng yêu nước, các nhà cách mạng
không Cộng sản dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc trên chuyến xe
chạy bằng máu của chính mình.
Chiều mùa hè năm đó, lần đầu tiên trong đời tôi xúc động đứng im lặng
trước anh linh của những anh hùng đã ngã xuống cho độc lập tự do thật
sự của dân tộc. Xương thịt của những người đã hy sinh từ phong trào
kháng thuế miền Trung, Hà Thành đầu độc, khởi nghĩa Duy Tân, Thái
Nguyên, Yên Bái hẳn đã hòa tan vào lòng đất mẹ nhưng anh linh họ vẫn là
ngọn đuốc soi sáng giấc mơ Việt Nam độc lập, tự chủ của dân tộc.
Như tôi có lần đã viết. Giấc của họ là giấc mơ của những người để
lưng trần, tóc cắt ngắn, đóng khố che thân, dắt bầy con, vượt bao nhiêu
núi rừng ghềnh thác trong cuộc nam tiến đầy gian nan nhưng vô cùng hiển
hách, từ dọc bờ Dương Tử di dân xuống lưu vực sông Hồng cách đây gần 50
thế kỷ. Trong lúc bao nhiêu bộ tộc Bách Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu
diệt hay đồng hóa vào những tỉnh, những huyện như Hồ Nam, Quảng Tây,
Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay, giòng giống Lạc
Việt qua bao độ thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành như một nước
Việt Nam.
Giấc mơ của họ là giấc mơ của những người đã tạo nên nền văn minh
Việt Nam rất sớm. Nơi đó, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, tổ tiên
chúng ta đã biết trồng cây ăn trái, biết làm đồ gốm, biết đẽo đá thành
những lưỡi cuốc nhọn, biết đắp đất ngăn bờ để đưa nước sông vào ruộng.
Tổ tiên chúng ta đã biết xây dựng các cơ xấu xã hội, lấy thôn làng làm
căn bản, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế, lấy tình nghĩa đồng bào
làm sức mạnh, lấy nguồn gốc tổ tiên (một mẹ trăm con, chung cùng bọc
trứng) làm nơi nương tựa tinh thần. Những hình ảnh thân thương quen
thuộc của cây đa, bến nước, sân đình gắn liền trong tâm thức của mỗi
người Việt Nam. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ
tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn
minh nhân loại. Chính tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc
thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự
xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ
phương Bắc.
Giấc mơ của họ là giấc mơ của một dân tộc hơn một ngàn năm trong bóng
đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường, nhà Minh qua bốn lần bắc thuộc
với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên
non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính
độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất.
Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng
chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất
gốc. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi
đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở sông Bạch
Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích
của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và
nước mắt của tổ tiên đã đổ xuống trước các cuộc xâm lăng của các triều
đại Bắc phương khác.
Lịch sử bao giờ cũng mang tính kế tục nhưng trước hết là lịch sử của
thời đại. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm để hoàn thành những trách nhiệm
mà lịch sử giao phó cho thời đại của họ nhưng dù không hoàn thành, ngọn
đuốc lịch sử vẫn phải được chuyển sang bàn tay thế hệ khác. Giấc mơ về
Việt Nam tự do, dân chủ và giàu mạnh dù sớm hay muộn sẽ phải thành hiện
thực.
Thời gian gần đây, tôi có dịp đọc nhiều bài viết từ những tấm lòng
đang băng khoăng vì đất nước. Phần lớn bắt đầu bằng nhóm chữ “chưa bao
giờ …như hôm nay”. Chưa bao giờ con người Việt Nam bị khinh thường như
hôm nay. Chưa bao giờ lãnh thổ Việt Nam bị chiếm đoạt trắng trợn như hôm
nay. Chưa bao giờ chủ quyền đất nước bị đe dọa như hôm nay. Chưa bao
giờ tài nguyên thiên nhiên bị thất thoát như hôm nay. Tất cả đều đúng
cả. Tôi chỉ muốn thêm vào một “chưa bao giờ” nữa, đó là, chưa bao giờ
ranh giới giữa dân tộc và phản dân tộc rõ ràng như hôm nay. Biên giới đó
rõ ràng đến mức một người Việt Nam có thể chọn lựa đứng về phía chính
nghĩa, phía dân tộc mà không phải lo lầm lỡ về sau.
Giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn một con đường riêng của
họ. Con đường đảng chọn cũng rất rõ ràng: phát triển đất nước theo định
hướng Trung Quốc và cùng lúc bằng mọi giá duy trì chế độ độc tài toàn
trị tại Việt Nam.
Bộ chính trị trung ương đảng Cộng sản Việt Nam không phải là những
người không biết suy nghĩ, không thấy đúng, thấy sai và thậm chí có rất
nhiều cơ hội để sửa sai nhưng quyền lợi cá nhân, phe nhóm và đảng đã che
khuất sự sống còn và tương lai đất nước.
Nhân dân Việt Nam chịu đựng quá nhiều rồi, nhượng bộ quá nhiều rồi,
lùi bước quá nhiều rồi. Từ xâm lăng Hoàng Sa đến chiến tranh biên giới,
các trận đánh khu vực Lão Sơn, lấn chiếm Trường Sa, bắn chết ngư dân
Thanh Hóa và hôm nay Bauxite. Chỉ một thời gian ngắn thôi mà nhìn ra
biển, nhìn lên núi, nhìn xuống phố, nhìn qua sông, đâu đâu cũng thấy
hàng Trung Quốc, đất Trung Quốc, đảo Trung Quốc, người Trung Quốc, vài
chục năm nữa đất nước sẽ ra sao?
Tại sao Trung Quốc không bắn thủng tàu, không ăn cướp tài sản, đất
đai của Thái Lan, Philippines hay ngay cả của đàn em Bắc Hàn một cách
công khai, lộ liễu như họ đã và đang làm đối với Việt Nam? Một người có ý
thức nào cũng biết, đơn giản bởi vì giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc
sống trong gan ruột của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam những kẻ
không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc núp dưới chiếc dù Trung Quốc.
Như tôi có lần mách nước cho bà con ngư dân trong bài “Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa”,
cách hay nhất để khỏi bị hải quân Trung Quốc bắn chết là khi tàu đánh
cá vừa ra khỏi cửa biển thì xin các bác làm ơn hạ cái lá cờ gọi là “cờ
tổ quốc” xuống dùm. Nếu phải treo thì treo đại một lá cờ Phi, cờ Thái
Lan, cờ Nhật lên mũi tàu. Nói ra thì cho là phản động nhưng tin tôi đi,
làm như thế bà con ngư dân mới hy vọng còn đường trở về với vợ con.
Thời điểm 1958, Pháp đã rút đi và Mỹ thì chưa đến mà Phạm Văn Đồng,
còn có thể thay mặt cho 11 ủy viên bộ chính tri, hạ bút ký một văn kiện
nhục nhã như thế thì với hoàn cảnh phe Cộng sản chỉ còn lại năm anh em
trên một chiếc xe tang, trong đó có đến bốn em đang lâm cảnh hàn vi đói
khát, thì chuyện gì mà họ không dám làm. Lê Khả Phiêu, trong giai đoạn
tìm về chủ cũ năm 1991, cũng có thể đã ký những văn bản tương tự như văn
bản của Phạm Văn Đồng, khác chăng, “đồng chí Phạm Văn Đồng bị lộ” và
“đồng chí Lê Khả Phiêu chưa bị lộ” mà thôi.
Người Do Thái nguyền rủa Hitler, nhân loại kết án Hitler, nhưng nhân
dân Đức trước khi có thái độ tương tự, họ phải biết trách các thế hệ Đức
trong thập niên 30 của thế kỷ 20, bởi vì chính dân Đức thời đó bằng con
đường bầu cử hợp pháp đã đồng ý đặt mình dưới sự lãnh đạo của Hitler và
đảng Quốc Xã. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ bầu đảng Cộng sản để lãnh
đạo nhưng chắc chắn cũng sẽ phải trả lời cho các thế hệ mai sau về thái
độ thờ ơ, thỏa hiệp, yếu hèn của các thế hệ hôm nay trước tình trạng
băng hoại đạo đức, lạc hậu kinh tế, thất thoát tài nguyên, mất mát lãnh
thổ và suy yếu chủ quyền đất nước.
Trần Trung Đạo