jeudi 15 septembre 2016

Thì thầm với mùa thu - Trần trung Đạo

Thì thầm với mùa thu
Trần trung Đạo -Hoa pensee đọc


samedi 10 septembre 2016

TÔI THẤY và NGHE ĐƯỢC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM VIỆT NAM Sau 37 năm dưới chế độ CS

TÔI THẤY và NGHE ĐƯỢC GÌ
Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM VIỆT NAM
Sau 37 năm dưới chế độ CS
PHÓ THƯỜNG DÂN
Lời người viết:  Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực. 

Phim: Vietnam! Vietnam!

Phim: Vietnam! Vietnam!


Món Nợ Này Xin Ghi Nhớ Đừng Quên-Phạm Tín An Ninh


Món Nợ Này Xin Ghi Nhớ Đừng Quên-Phạm Tín An Ninh

Một thời để nhớ-T.Vấn




VietNamQuêHươngTôi đọc

1.

Từ đầu dây bên kia, tiếng của Choai với giọng Huế ấm áp : " Vấn ơi, viết một chút gì đi về những người vợ đáng yêu của chúng ta, về những nàng dâu Nguyễn Trãi ấy mà !" Tôi định buột miệng hỏi một câu rất thừa, rất ngớ ngẩn : " Viết ? … viết về cái gì nhỉ ? " nhưng đã kịp tự mình chựng lại. Vừa lúc, nhận được Đặc San Gia Đình Nguyễn Trãi Úc Châu do Diệp văn Oánh gởi đến. Trong đó có bài thơ của Nàng Dâu NT3 Phạm ngọc Hiệp với những dòng thật ngọt ngào : "Xin cám ơn Trường Mẹ có anh, Cho em được làm Nàng Dâu Nguyễn Trãi … " Tại sao những nàng dâu của cụ Ức Trai phải cám ơn nhỉ ? Đã đành, sinh ra ta là Cụ Nguyễn, nhưng nuôi ta – may mắn hay là không may mắn ? – lại là những nàng dâu của cụ. Hồi tưởng lại những tháng ngày quá khứ. 30 năm như một giấc ngủ đông muộn màng. Đời chúng ta đã sang trang. Và từng người tình … bỏ ta đi, như những dòng sông nhỏ. Biết bao dâu bể , bể dâu, vẫn còn đó,những người bạn đời của chúng ta. Có người đã đi chung " Đoạn đường chiến binh " với chồng kể từ cái ngày " tấm mẵng năm xưa , có chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp but nghiên theo nghiệp đao cung ". Trải bao gió dập mưa vùi , cay đắng ngọt bùi của ba mươi mấy năm binh-lửa-ngục-tù-lưu-vong vẫn đứng bên cạnh chồng rạng rỡ thủy chung hãnh diện được là nàng dâu Nguyẽn Trãi. Có những người bạn đời đã đến với chúng ta trong những ngày khốn khó. Những ngày chúng ta mất tất cả chỉ còn có nhau. Để chỉ nghe kể về quá khứ của chồng mà tưởng như mình đã là một phần trong đó không thể thiếu. Những dòng này tôi đã hơn một lần ghi lại trên trang giấy trắng. Nay lại muốn được viết lại một lần nữa mà vẫn không cảm thấy thừa . . .

Hồi tưởng lại những ngày ấy. Có những điều chỉ nói một lần rồi thôi. Nhưng có những điều không chỉ nói một lần cho đủ. Dù chỉ là lập lại những điều đã nói. Tôi đang nói về những ngày những tháng những năm của một cuộc điêu linh. Điêu linh không chỉ riêng cho chúng ta mà còn cho cả những nàng dâu tội nghiệp. Oi cánh hoa mong manh trước phong ba bão táp. Làm sao nàng vượt qua được trong nỗi cô đơn khôn cùng – cả thể xác lẫn tâm hồn. Cà phê đắng bỏ thêm đường thì ngọt. Đời đắng cay em biết bỏ thêm gì. Tiếng khóc nỉ non ngày nào tay xách nách mang dắt con lên trại cải tạo thăm chồng bóng gầy xiêu đổ giữa hai hàng cây so đũa đứng lặng câm dọc hai bên đường dẫn vào cổng trại. Lên xe về con hỏi. Mẹ ơi đến bao giờ, lên thăm ba lần nữa, mắt em nhòa hơi mưa. Mắt em nhòa hơi mưa. Tôi như nghe thấy người tù Phạm Ngọc Hiệp than thở : " Chuyện đời người là trăm vạn đường chia. Nên lời yêu đương đôi khi vội vã. Thiết tha trên bước chân về . . . "

Ngày xưa, có những gã từ quan – lên non tìm động hoa vàng ngủ quên. Ngủ quên một giấc ngủ ba mươi năm mộng mị . Nay nhớ người quay về , để hồn mộng du.

Anh nằm gối cỏ chờ hoa/ áo em bạch hạc la đà hải hư (PTT).

Và giờ đây, dù ở bất cứ nơi đâu, trong những buổi họp mặt lớn nhỏ , cũng vẫn những nàng dâu ấy – dù aó xưa bạch hạc – tất tả ngược xuôi lo toan mọi thứ – cho chồng, cho các bạn của chồng . Không một lời than van.

Vì nàng bao giờ cũng hãnh diện được làm Nàng Dâu Nguyễn Trãi.

2.


Chúng ta đã qua một thời binh lửa. Đã có những mất mát vô cùng lớn lao. Đã có những đứa hy sinh trong cuộc chiến. Nhiều đứa cả một thời trai trẻ giam thân trong các nhà tù chạy dài suốt từ Ai Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau. Từ những nhà tù, đã có những đứa không trở về. Đã có những đứa vượt biển bỏ xác dọc đường. Vì thế, nếu tôi có sa đà với những kỷ niệm của hôm qua, có yếu lòng để rơi những giọt nước mắt gìa nua, cũng chỉ là để cho mình tìm lại được chính mình. Để mình trở về nguồn. Đừng buộc tôi phải đao to búa lớn, phải dối trá chính mình, khi lòng tôi không muốn.Tôi chỉ muốn được trở về với cội rễ lòng mình, soi bóng mình còm cõi trong đó, mà tìm lại anh em bạn bè kẻ còn người mất. Ngưới mất thì coi như đã hoàn tất cuộc trở về quê hương đích thực. Mong cho người về được nơi sẽ đến. Kẻ còn thì, đứa lang thang vất vưởng cuộc mưu sinh quê nhà – Thậm chí còn không nuôi nổi hai đứa con dại như NĐL một chân – đứa ray rức với những hệ lụy của một đời lưu vong quê người. Dẫu quê nhà hay quê người, cũng vẫn là chúng ta. Những thằng ra đi từ ngọn đồi thân thương mùa hè năm ấy. Ba mươi năm một giấc ngủ đông muộn màng. Ba mươi năm hồn nửa khuya đau đáu.Mẹ kiếp! Nửa đêm thức giấc, bỗng thấy mình chưa thể chết được nếu chưa gặp được nhau để trả món nợ 30 năm. Vả chăng, sống ở đời ai mà không nợ. Không nợ tiền thì cũng nợ tình. Không nợ ân thì cũng nợ oán. Những dòng này được viết để gởi đến những người anh em đã một thời rất thân thương của tôi. Những người anh em mà một thời chúng tôi chia nhau từng điếu thuốc đen khét nghẹt và những ly cà phê bắp rang mà mỗi đứa chỉ đủ tiền để trả cho phần của mình. Chúng tôi đã nợ nhau ân tình những ngày ấy. Cái món nợ mà tôi – mà cả các bạn – đã hân hoan xin được đón nhận. Vì không gì hạnh phúc hơn được nợ nhau một chút tình. Vì sống ở đời, đó là cái nâng đỡ chúng ta vượt qua mọi gian nan sóng gío. Giờ đây, tha phương cầu thực xứ người, chúng tôi không còn hạnh phúc ở bên nhau để có thể mời nhau, chia sẻ với nhau tất cả những gì gọi là lãng mạn nhất, nhưng những cú điện thoại viễn liên thỉnh thoảng vẫn đủ làm ấm lòng người xa xứ. Nơi đây, chúng ta có đủ tất cả nhưng chỉ thiếu một chút tình để được nợ nhau. Vậy mà, vì những tình cờ định mệnh nào, vì những hệ lụy khắc nghiệt nào, mà món nợ tình xưa nay hình như đã trở thành một sự đối địch. Những người bạn từng một thời nắm tay nhau ở cùng một bên chiến tuyến. Nay, 30 năm sau cuộc chiến, lại ở hai bên đầu một cuộc xung đột. Liệu có phải là xung đột hay không, hay chỉ là ngộ nhận, hay chỉ là hệ lụy tội nghiệp của một môi trường vốn lúc nào cũng đầy dẫy những ảo tưởng về một sứ mạng cần phải được chu toàn ? Dẫu có thế nào, sao mình lại không ngồi lại được với nhau hả các bạn ? Dẫu có thế nào, sao mình không còn cho nhau được những tiếng mày tao thân ái , thay vì cái tiếng " mẹ nó . . ." hằn học, hận thù ? Nếu là ngộ nhận, xin một lần được ngồi lại với nhau. Nếu là lỗi phải, thì cho tôi – cho chúng ta – được gởi đến nhau những lời xin lỗi thành thực nhất tự đáy lòng. Đặng hiếu Sinh ở Dallas, trong lá thư ngỏ gởi đến các anh em nhân có những lời chỉ trích của một vài anh em vùng Nam Cali về Bản Tin Tiếp Nối khóa 3 ( số 2 ) đã viết những dòng xót xa "Với tôi thực thể cuả khoá 3 là gì? Trong lòng tôi nghĩ rằng, nếu không còn sót những tình cảm gắn chặt nhau từ một duyên phận thuở nào, thì khoá 3 chẳng còn gì đáng nói. Không phải là một tập đoàn kinh tế, chính trị, mà địch phải e dè! Tất cả đều là những người tỵ nạn như bao người khác. Anh em 30 năm chia cách từ ngày ra trường, xuôi ngược dòng đời dâu bể, bây giờ có những thằng mắt mờ chân run, ở tuổi gần cuối cuộc chơi rồi.Nhớ nhau, muốn tạo cơ hội gặp gỡ một lần . Những tình cảm cao quí đáng trân trọng nầy đã bừng dậy trong lần hội ngộ 29 năm cuả một nhóm anh em từ Bắc Cali. Từ đó, một nhóm anh em và tôi nghĩ phải làm một sợi giây liên lạc để nuôi dưỡng tình cảm nầy. Tôi đã bỏ rất nhiều thì giơ, công sức không biết mệt với tất cả hứng thú để thực hiện hai bản tin. Là tiếng gọi nồng nàn từ trong lòng cuả một số anh chị em để gửi đến các bạn .. .". Qủa thật là một bi kịch khi nhìn lại một số sự kiện xảy ra trong những ngày này. Những nỗ lực của anh em Bắc Cali, thay vì dồn hết cho kỳ Đại Hội Ngộ tháng 8 sắp tới, thì lại phải dành cho những điều thật buồn bã. Trong đó có cả những mất mát tình cảm. Những sự nhiệt tâm, như của nhóm anh em ở Dallas, như của nhóm anh em ở Bắc Cali, đã có lúc bị ngộ nhận. Tôi nhớ lại một bài viết của tôi từ nhiều năm về trước , trong đó có một đoạn nói về " những người khác ", không dè, ngày nay lại có thể dùng để nói về chính mình :" . . . Lịch sử vẫn chưa chịu sang trang. Để chúng ta vá lại những mảnh đời mảnh hồn vỡ nát. Chúng ta nhìn lại ngày hôm qua chẳng phải để thở than cho những thất bại của đời mình. Càng không muốn dùng những đao to, những búa lớn, mắt trả mắt, răng đền răng để vuốt ve những ảo tưởng không tên gọi. Hỡi ôi! Bi kịch đã không phải chỉ ở ngày 30 tháng tư định mệnh. Không phải chỉ ở những năm tháng tù đầy. Không phải chỉ ở những ngày tạm trú trong căn nhà mình đã được sinh ra và lớn lên. Không phải chỉ ở cuộc sống tha hương nơi xứ lạ. Không phải chỉ ở ngay trong đáy lòng chúng ta với những mâu thuẫn giằng xé. Mà còn ở sự ngộ nhận. Sự ngộ nhận giữa những chiến hữu năm xưa đã từng một thời ở chung một chiến tuyến. . ."

Các bạn ta ơi, bọn mình đang bước vào những giây phút cuối cùng của cuộc chơi. Một cuộc chơi mà chúng ta đã thua cả một đời trai trẻ, thua hết cả những khát vọng đội đá vá trời. Có thắng được chăng là chút tình bạn mong manh. Để . . .đêm đêm nhớ về Sài Gòn. Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau. Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau. . (TTT). Mai này, khi xuôi tay nằm xuống, chỉ cầu xin được một nụ cười thanh thản trên môi gởi đến anh em bạn bè. Thế cũng đã là hạnh phúc lắm rồi phải không các bạn ?

© T.Vấn 2007

Thầy Giáo cũ và Lá Cờ Vàng - Nguyễn Duy An

Thầy Giáo cũ và Lá Cờ Vàng - Nguyễn Duy An

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjb_ZlPFL78VB_58LpXonFcGJrbmPMWPMfSQPUFq2BYZ9-VEUQLc1u1A2a3sbFhjLXKe8FoR34L48SdhYX0PM6Fv5LD8PQdR911GxxNi8eH2X08I-HuVRx1sOGqohlnwFdlo3nSA0cge28o/s320/C%C3%B2+v%C3%A0ng.gif

Dừa Xiêm đọc

Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi. Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia, cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời.

Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình... Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi! Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo. Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.

Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:
- Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ. Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?
- Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?
- Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.
- Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm... Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.
- Tuỳ con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.

Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden, thầy tôi hỏi lớn:
- Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?
- Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “Saigon Boulevard” song song với tên đường chính thức là “Wilson Boulevard”. Còn bên trong khu Eden, tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.
- Người Việt mình bên này hay thật!
- Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.
Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:
- Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.
- Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao?? Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…
- Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.
- Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.
- Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ. Ôi! Mấy chục năm rồi!


Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…
Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:
- Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.
- Dạ.

Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:
- Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.
- Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?
- Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.
- Dạ.

Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy? Tôi biết biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:
- Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.
- Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.
Thầy cầm tay tôi giặc giặc:
- Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.
- Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.
- Ồ. Quý hóa quá!
Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:
- Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.
- Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…
Tôi đỡ lời:
- Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.
Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:
- Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.
Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:
- Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.
- Dạ.

Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người. Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Thầy kính yêu,

Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden, và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói - “không thầy đố mầy làm nên” - con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt. Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.

Nguyễn Duy-An

jeudi 8 septembre 2016

Chuyện đọc Thanh Phương-2


Mua vài đồng nhớ - Nguyễn Ngọc Tư-Thanh Phương đọc

Thư của GS Nguyễn văn Phú, viế́t cho Con , Cháu


http://www.ninh-hoa.com/images/NinhHoaDotCom-GsNguyenVPhu.jpg
Thư gởi Con Cháu-GS Nguyễn Văn Phú-Thanh Phương đọc

Sài Gòn chuyện đời của phố: Quán cơm - phòng trà Anh Vũ

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_20/quan-anh-vu-d_lolu.jpg?width=500&encoder=wic&subsampling=444Quán Anh Vũ là cái tên ban đầu của quán văn nghệ, quán cơm nghệ sĩ và sinh viên Anh Vũ, thành lập từ sáng kiến của ông Võ Đức Diên, một kiến trúc sư và cũng là một nghệ sĩ.

Người bạn của tôi, sống ở khu vực gần cầu Trương Minh Giảng, xưa gọi là khu xóm Vẹc (do từ cái tên cũ Eyriaud Des Vergnes thời Pháp thuộc của đường Lê Văn Sỹ, Q.3 hiện nay), kể chuyện chị mình, nay cũng đã hơn 70 tuổi:
Năm 20 tuổi và đang là sinh viên, khoảng đầu thập niên 1960, chị náo nức khi đọc báo và biết có cuộc thi tuyển lựa diễn viên đóng xi nê ma ở quán Anh Vũ, đường Bùi Viện. Vốn là cô gái gốc Bắc khá xinh xắn ở khu di cư Bùi Phát, chị đánh liều đi dự tuyển, không xin phép gia đình (vì có xin cũng không được phép).