Thân Phận Việt Nam: Việt Nam, Tấm Khiêng Muôn Thuở Chống Tàu. Xưa Cờ Vàng, Nay Cờ Đỏ, Tạo Mâu Thuẫn Giữa Người Quốc Gia, Mỹ Đang Thay Ngựa Giữa Dòng.
Phan Văn Song, TS
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
(Nguyễn Du Kim Vân Kiều)
Chúng tôi, sau gần ba tuần đi thăm bạn bè xứ Mỹ, đươc đón nhận, được
bạn bè chỉ rõ thêm, đóng góp thêm, vào cái nhìn vốn đã bi quan sẳn của
chúng tôi, lại càng bi quan hơn, đối với tình hình đấu tranh cho Tự do,
Dân chủ, Nhơn quyền, Công bằng, Lương thiện cho Việt Nam và người dân
Việt Nam trong nước.
Nếu chỉ nói đơn thuần việc Chống Cộng, nói riêng, hay chuyện tranh đấu
ủng hộ người dân Việt Nam trong nước, đứng lên giành quyền Tự quyết,
thay Đảng Cộng Sản Việt Nam, giành lại quyền lèo lái Việt Nam, vượt
quốc nạn Hán Hóa đang hoành hành, xây lại căn nhà Việt Nam hợp với ý
nguyện của bao người Việt Nam mơ ước được một quốc gia Việt Nam tươi
sáng, hào hùng, tử tế, nói chung. Chúng tôi lại càng tuyệt vọng hơn nữa
! Phải, chúng tôi tuyệt vọng khi nhìn cách đối xử mới của ông chủ nhà
đất Mỹ, đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản, trên đường ông,
vì sắp từ giả nhiệm kỳ mình, đang sửa soạn một hướng chánh trị ngoại
giao mới, đầy sà-phòng trơn trợt cho những người kế nhiệm!
Hai Nghị Viên SJ Khiếu Nại Lên TT Obama
.
San
Jose (TH) – Trong một lá thư viết chung gởi cho Tổng thống Hoa Kỳ
Barack Obama, hai nghị viên Nguyễn Mạnh và Nguyễn Tâm cùng ký tên để
khiếu nại và yêu cầu có biện pháp kỷ luật nghiêm khắc với thái độ coi
thường cờ vàng và quá coi trọng CSVN của ông đại sứ Ted Osius.
Trong
bức thư được gởi đến tòa Bạch ốc hôm thứ Năm ngày 27 tháng 8 vừa qua,
hai nghị viên gốc Việt đã dùng lời lẽ ôn hòa nhưng cứng rắn, vạch ra
những sai lầm nghiêm trọng của ông Ted Osius khi đã mang trên vai áo huy
hiệu của cờ CSVN để tiếp xúc với người Việt tị nạn cộng sản, và đã 3
lần yêu cầu dẹp bỏ cờ vàng vì ông ta không muốn bị chụp hình với lá cờ
đó, viện lý do là ông sẽ bị mất việc.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, tên thật Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1944 tại Phan
Thiết, mới qua đời ngày 4 tháng 8 vừa qua, cũng tại Phan Thiết. Trước
năm 1975, ở miền Nam, ông chỉ xuất bản một tập thơ duy nhất, Chiến tranh Việt Nam và tôi (1972); sau năm 1975, sống trong nước, ông cũng chỉ in được một tập thơ, Ở đời như một nhà thơ Đông Phương
(1995), trong đó có khá nhiều bài thơ đã in trong tập thơ đầu. Như vậy,
Nguyễn Bắc Sơn làm thơ rất ít. Nhưng ấn tượng ông để lại lại khá lớn.
Theo lời kể của Võ Phiến, trước năm 1975, cả Doãn Quốc Sỹ lẫn Chu Tử đều
khen thơ Nguyễn Bắc Sơn “hay”. Bản thân Võ Phiến, trước năm 1975, trong
cuốn Chúng ta qua cách viết (1972), khen bài “Chiến tranh Việt Nam và tôi” là “tuyệt diệu” (trang 228); sau năm 1975, trong cuốn Văn học Miền Nam – Thơ (1999), tiếp tục khen phong cách thơ Nguyễn Bắc Sơn là “độc đáo” (tr. 2927). Ở hải ngoại, năm 2005, đọc lại thơ Nguyễn Bắc Sơn, nhà phê bình Đặng Tiến cũng khen là “hay”, là “tài hoa”, là “thốn tâm thiên cổ”, “tấc lòng lưu vọng ngàn năm”.
Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục
Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.
Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.
(Bỏ xứ - Nguyễn Bắc Sơn)
Mới
đây “Thư Ấn Quán”, một địa chỉ
xuất bản sách do một nhóm những nhà văn nhà
thơ đã từng có tác phẩm xuất bản ở
Miền Nam trước năm 1975 và ở Mỹ sau đó
đứng ra chủ trương lần lượt tái
bản những tác phẩm văn học giá trị của
Văn Chương Miền Nam 1955-1975. Trong tháng 7, 2005
Thư Ấn Quán đã gửi đến thân hữu và
những người yêu thơ bản in lại tập
thơ “Chiến Tranh Việt Nam và Tôi” của nhà
thơ Nguyễn Bắc Sơn, một tác phẩm văn
học giá trị nhưng hiện nay rất khó kiếm.
Nhóm Thư Ấn Quán với nhà văn Trần Hoài Thư
đứng đầu đã trình bày như sau về
việc tái bản “Chiến Tranh Việt và Tôi” ở
hải ngoại:
Dạo
13- 14 tuổi, đêm có trăng tôi hay theo mấy thằng gần nhà ra vườn điều
rìa xóm để rình mấy cặp tình nhân hò hẹn. Chuyện âu yếm lén lút của họ
là trò cười tục tĩu của đám con trai mới lớn. Đến một đêm, chúng tôi bắt
gặp chị Hồng, con cậu tôi với một người đàn ông lạ. Chúng không chỉ
cười chị mà còn cười cả tôi. Từ đó tôi không đi theo chúng nữa. Và tôi
giận, tránh mặt chị Hồng, người mà từ trước đến nay tôi vốn rất khắng
khít.
Một
hôm chị chặn tôi trên đường đi học về, mặt chị hốc hác, mắt sâu hoắm.
Tôi bực vì lòng gợn lên ý nghĩ lý do sâu kín hàng đêm đã khiến chị tiều
tụy. Chị hỏi tôi sao dạo này lại ghét bỏ chị như thế? Tôi gằm mặt không
thèm trả lời. Ngẩng lên, thấy mắt chị đầy nước mắt.
Có lẽ đối với người miền Nam, tháng tư là tháng đau buồn nhất cho cả bên này lẫn bên kia, không cần Võ Văn Kiệt ca bài "Triệu người vui có triệu người buồn".
Cái ngày mà lẽ ra lòng dân quy về một mối để tái thiết đất nước, lại
chính là ngày bắt đầu cho "cuộc chiến lòng người" nghiệt ngã đến tận
ngày nay. Giá mà đảng cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH cách
đúng nghĩa của kẻ chiến thắng bằng lòng bao dung sau ngày tàn chiến
cuộc, không vì lòng hận thù nhỏ nhen bởi mặc cảm thua sút để đạp người
dưới ngựa vì họ giàu có và văn minh hơn. Không sẵn sàng đốt cháy cả dãy
Trường Sơn để "Thống nhất" đất nước bằng cuộc chiến phi nghĩa làm hàng
triệu bộ đội sinh Bắc tử Nam, mà mục đích sau cùng chỉ để đánh cho Liên
Sô và Trung cộng như chính Lê Duẫn thú nhận.
Nguyễn Cát Thảo, luật sư trẻ Australia gốc Việt, ra đời trong trại tị
nạn Sikiew ở Thái Lan sau khi ba mẹ cô vượt đường bộ từ Việt Nam sang
Kampuchia rồi đến được Thái Lan năm 1979.
Ba tháng sau khi cô chào đời, gia đình Nguyễn Cát Thảo được Australia
nhận cho định cư. Năm 2004, khi đang còn học Trung Học, Nguyễn Cát Thảo
là người đầu tiên gốc tị nạn được chọn làm đại diện giới trẻ Australia
đến diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở New York.
Năm 2015, kỷ niệm 40 năm người Việt bỏ xứ đi tị nạn, Nguyễn Cát Thảo ra mắt cuốn tự truyện We Are Here mà cô ấp ủ bao năm:
Kính thông báo với quý tổ chức Cộng Đồng, quý Hội Đoàn và toàn thể quý Đồng Hương
Hôm nay, chúng tôi đã in, dán phong bì để Thứ Hai 24-8-2015 sẽ gửi đến
tất cả các Nghị Sĩ, Dân Biểu trong các Ủy Ban Ngoại Giao của Quốc Hội
Hoa Kỳ, gồm có 33 vị, cộng thêm hai Dân Biểu Zoe Lofgren và Mike Honda.
Nếu quý cũng in lá thư và ghi tên vị dân cử cấp Liên Bang ở địa phương
của quý vị và gửi sớm thì tiếng nói chúng ta sẽ mạnh thêm.
Trong cuốn 1 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã nêu lên yếu tố “Ngu dân và mị dân để giữ đảng” (Links: http://lucluongquocdanvietnam.org/category/dang-chi-hung/
). Còn yếu tố đánh lừa dư luận để tiếp tục lái con tàu Việt Nam đến
chỗ mất nước cho Tàu thì thế nào?. Điều đó sẽ được thể hiện ở trong bài
viết này.
Dưới chân núi Chà Bang, nơi Dzũng Chinh ngã xuống là một vùng
đầy hoa sim. Tác giả nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” cuối cùng cũng đã nằm
xuống trên ngọn đồi bạt ngàn hoa sim tím. Cái chết của Chuẩn úy Nguyễn
Bá Chính, một trung đội trưởng bộ binh, cũng lặng lẽ như hàng vạn chiến
sĩ vô danh khác đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt để bảo vệ
quê hương, nhưng tên tuổi Dzũng Chinh được nhiều người tiếc thương,
nhắc nhở, bởi vì anh là một nhạc sĩ trẻ tuổi, đã tạo nên một tác phẩm đi
vào lòng người, và mãi ở lại với thiên thu.
(Đã có một vài bài viết nói về cái chết của Nhạc sĩ Dzũng Chinh,
nhưng tiếc là không chính xác. Bài viết này nhằm mục đích làm rõ cái
chết của ông, một nhạc sĩ trẻ được nhiều người biết đến qua nhạc phẩm
“Những Đồi Hoa Sim”. Người viết bài này đã ở cùng một đơn vị với ông khi
ông tử trận)
Núi Chà Bang – nơi Dzũng Chinh nằm xuống. Photo courtesy: dulichgo.blogspot.com
Cali Today News - Nhạc sĩ Dzũng Chinh không có nhiều
sáng tác, nhưng nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” đã làm nên tên tuổi ông.
Bài hát được phổ biến trong những năm đầu thập niên 1960, thời điểm
chiến tranh Việt Nam bắt đầu khốc liệt, hàng hàng lớp lớp thanh niên
miền Nam, hầu hết là những học sinh, sinh viên tạm gác bút nghiên, lên
đường tòng quân bảo vệ giang sơn. Bài hát Những Đồi Hoa Sim (viết theo ý
bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, một nhà thơ sống ở miền Bắc) phổ
biến rất rộng rãi và nhanh chóng được quần chúng đón nhận khá nồng
nhiệt, đặc biệt trong hàng ngũ lính chiến miền Nam Việt Nam.
Nhạc sĩ Dzũng Chinh cũng là một người lính chiến thực thụ. Tên thật
là Nguyễn Bá Chính, quê quán ở Phan Thiết. Trước khi theo học khóa sĩ
quan đặc biệt ở Đồng Đế Nha Trang, anh là hạ sĩ quan phục vụ tại một Sư
Đoàn Bộ Binh thuộc Vùng IV. Cuối năm 1968, sau khi tốt nghiệp với cấp
bậc Chuẩn Úy, anh chọn đơn vị Sư Đoàn 23 BB và xin được phuc vụ tại
Trung Đoàn 44 (trú đóng tại Sông Mao, Phan Thiết).
Thời điểm này, Sư Đoàn 23 BB đặt bản doanh tại Ban Mê Thuột, đặc
trách hành quân trong lãnh thổ Khu 23 ChiếnThuật. Sư Đoàn có 3 trung
đoàn cơ hữu. Trung Đoàn 45 BB trú đóng tại Ban Mê Thuột, nơi có Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn, phụ tránh hành quân an ninh tại các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn.
Trung Đoàn 53 BB đồn trú tại Di Linh (Lâm Đồng), trách nhiệm các tỉnh
Lâm Đồng, Tuyên Đức, Quảng Đức. Riêng Trung Đoàn 44 BB trú đóng tại Sông
Mao, Bình Thuận, đảm trách các tỉnh miền duyên hải: gồm Bình Thuận,
Ninh Thuận, Khánh Hòa.
Trung Đoàn 44 BB đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt, Sông Mao, một
doanh trại rộng lớn của Sư Đoàn 5 BB, thời Đại tá Voòng A Sáng, bàn
giao lại để di chuyển vào Vùng 3 CT. Sông Mao là một thị trấn nhỏ thuộc
quận Hải Ninh, nằm phía Bắc Phan Thiết khoảng 60 cây số, cách Quốc Lộ 1
gần 2 cây số. Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đã theo chân Đại tá
Voòng A Sáng và Sư Đoàn 3 Dã Chiến (tiền thân của Sư Đoàn 5 BB) từ vùng
Mống Cái,Việt Bắc di cư vào đây tháng 8 năm 1954. Phía dưới là quận
Phan Lý Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số là người Chàm. Có cả dinh cơ của
bà công chúa cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ
xí, long bào và ấn tín. Cách đó không xa là mật khu Lê Hồng Phong nổi
danh của VC.
Nhắc đến địa danh Sông Mao và mật khu Lê Hồng Phong, người ta nhớ
tới mấy câu thơ nổi tiếng hào sảng của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn:
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
…..
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Chuẩn Úy Nguyễn Bá Chính xin về Trung Đoàn 44 BB nhằm được gần quê
quán. Anh được bổ sung về Đại Đội 1 thuộc Tiểu Đoàn 2/44. Đại Đội Trưởng
là Trung Úy Nguyễn Văn Chánh và Tiểu Đoàn Trưởng là Đại Úy Ngô Văn Xuân
(đến tháng 5 năm 1972 ông là Trung tá Trung Đoàn Trưởng). Một tháng sau
khi về đơn vị, anh được vị sĩ quan trưởng khối CTCT Trung Đoàn biết anh
là nhạc sĩ Dzũng Chinh nên xin biệt phái anh về Khối CTCT, tạm thời đảm
trách Ban Văn Nghệ, mới được thành lập. Vốn mang tính nghệ sĩ và sống
phóng khoáng, nên anh thường (dù) về Phan Thiết chơi với bạn bè, nhiều
lần vắng mặt tại đơn vị, nên bị trả lại Tiểu Đoàn, tiếp tục giữ chức vụ
trung đội trưởng tác chiến.
Đầu tháng 3 năm 1969, Tiểu Đoàn 2/44 di chuyển ra hành quân tại khu
vực quận Ninh Phước thuộc Tiểu Khu Ninh Thuận. Đại Đội 1/2 đảm trách an
ninh tại Văn Lâm, một làng của người Chàm, nằm phía Đông Nam tỉnh lỵ
Phan Rang khoảng 25 cấy số. Nhận tin tức của Phòng Nhì Tiểu Khu, cho
biết có một mũi công tác của Việt Cộng từ mật khu núi Chà Bang (tiếng
Chàm: Chơk Chabbang) sẽ về Văn Lâm thu thuế và thực phẩm, Tiểu Đoàn ra
lệnh Đại Đội 1 cho một trung đội đến án ngữ dưới chân núi Chà Bang để
phục kích toán quân VC khi chúng trên đường ra Văn Lâm. Trung Đội của
Dzũng Chinh nhận lãnh trách nhiệm đặc biệt này. Đến địa điểm phục kích
khoảng 7 giờ tối, Chuẩn úy Chính cho tiểu đội của Trung sĩ Luận ra nằm
tiền đồn phía trước, bên con đường mòn dưới chân núi, cách trung đội
chừng 500 mét, vừa theo dõi báo cáo bằng tín hiệu riêng khi địch quân
xuất hiện, vừa làm nút chặn, khi đám địch bị trung đội tấn công, chạy
ngược lại phía sau.
Khoảng 11 giờ tối, một toán người xuất hiện và lên tiếng: “Luận về
đây”. Chuẩn úy Chính tưởng là Trung sĩ Luận đã dắt trung đội về, nên hỏi
lại: “Sao Luận về sớm vậy?” Một tràng súng nổ tức thì. Chinh ngã xuống.
Thì ra có một trùng hợp kỳ lạ, quái ác, đã đưa đến cái chết tức
tưởi của Dzũng Chinh. “Luận về đây” lại là mật khẩu của địch, trong đó
cũng có tên Luận trùng với tên Trung sĩ Luận, người tiểu đội trưởng của
Chính có nhiệm vụ tiền đồn. Địch quân sợ bị phục kích nên đã chia làm
hai toán, sử dụng lộ trình khác, không đi theo con đường mòn, nên tiểu
đội tiền đồn của Trung sĩ Luận không phát hiện được. Chính vì sự ngộ
nhận đáng tiếc này làm Dzũng Chinh đã hứng trọn một tràng đạn AK của
địch. Đại Đội cho bắn trái sáng, kịp thời bao vây và truy kích tiêu diệt
đám địch quân. Chính bị thương khá nặng. Được trực thăng của Mỹ tản
thương kịp thời về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch Phan Thiết. Nhưng vì vết
thương quá nặng ở vùng bụng và ngực, nên sáng hôm sau Dzũng Chinh qua
đời.
Cái chết oan uổng của Dzũng Chinh đã được bạn bè cùng đơn vị bàn
tán khá nhiều với vài sự kiện mà mọi người cho là những điềm gỡ báo
trước:
Ngày xưa lương lính thường không đủ xài, nhất là những khi được về
thành phố, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến Ban Tài Chánh Trung
Đoàn xin mượn lương trước. Vị sĩ quan tài chánh ngần ngừ, bảo sao mượn
lương sớm thế. mới đầu tháng đã mượn, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh
gãi đầu năn nỉ:
-Thì Đại úy cứ xem như ứng trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà.
Vị Đại úy cho mượn, nhưng rầy anh:
-Cậu chớ nói điều gỡ, không nên!
Sau đó, anh rủ hai người lính về thành phố Phan Thiết chơi. Không
hiểu đụng chạm thế nào, nhóm anh đánh nhau với một nhóm lính hải thuyền.
Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo của Quân Cảnh Tư Pháp Phan
Thiết, gọi trình diện. Anh khoe với đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi
nói:
-Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai mà trình diện!
Không ngờ anh đã đi luôn thật.
Dưới chân núi Chà Bang, nơi Dzũng Chinh ngã xuống là một vùng đầy
hoa sim. Tác giả nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim” cuối cùng cũng đã nằm
xuống trên ngọn đồi bạt ngàn hoa sim tím. Cái chết của Chuẩn úy Nguyễn
Bá Chính, một trung đội trưởng bộ binh, cũng lặng lẽ như hàng vạn chiến
sĩ vô danh khác đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt để bảo vệ
quê hương, nhưng tên tuổi Dzũng Chinh được nhiều người tiếc thương,
nhắc nhở, bởi vì anh là một nhạc sĩ trẻ tuổi, đã tạo nên một tác phẩm đi
vào lòng người, và mãi ở lại với thiên thu.
Những bức ảnh màu mộc mạc gợi nhớ về một đô thị hoa lệ từng đứng bậc nhất Đông Nam Á. Hình ảnh Việt Nam xin giới thiệu bộ ảnh đẹp về Sài Gòn xưa, trước năm 1975.
Bán cơm trưa cạnh dãy kiosque trên Đại Lộ Nguyễn Huệ 1966
Bà
tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo
sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của
bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó
không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn
ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện.
Chưa
nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những
con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán
lắm rồi.
Thế hệ của những người xấp xỉ tám mươi ở Nam kỳ lục tỉnh thuộc địa trực
trị của Pháp đều bị bó buộc phải học tiếng Pháp như chuyển ngữ (langue
véhicule, vehicle language) ở trường công lập. Mãi khi chánh quyền được
trao trả lại cho người Việt, lên đại học mới được học chương trình bằng
tiếng Việt. Công lao của quí vị giáo sư tiền bối xuất thân từ trường
Pháp giúp Việt Nam hoá nền giáo dục phổ thông và chuyên môn thật là vô
lượng.
Đài Phát Thanh Quân Đội-Chương Trình Nhạc Chiêu Hồi
1. Ngày Về ; Hoàng giác - Anh Ngọc
2. Chiều Tà, Nhạc Ngoại quốc - Thái Thanh
3. Giấc Ngủ Cô Đơn, Lê Dinh - Thanh Thúy
4. Đôi Bóng, Lê Dinh & Anh Bằng - Hoàng Oanh
5. Anh Hởi Anh Cứ Về!, Phạm Duy - Thanh Tuyền
Ông Clarence bảo muốn đến Chu Lai chỉ vì nơi đó có người anh cả của ông
đang đóng quân. Tôi đáp lại, tôi chưa đến Chu Lai bao giờ.
Thật
vậy, nếu không kể những lần về miền trung, xe đò bắt buộc phải chạy qua
cái thị trấn ven biển nho nhỏ ấy, thì tôi vẫn chưa được kể là đã đến Chu
Lai. Dường như là chưa bao giờ có cơ hội đi một vòng xem nơi ấy có
những gì dẫu từ đấy ra tới Đà Nẵng, thành phố tôi đã sống chỉ khoảng
chừng năm mươi sáu dặm, chưa đến chín chục cây số về hướng nam trên quốc
lộ Một, và đường đi thì có thể nói là khá thẳng thớm, dễ dàng.
Dân biểu Hoa Kỳ, ông Alan Lowenthal, là người rất quan tâm đến công
việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, từng gởi văn thư với 18 chữ
ký của đồng viện để yêu cầu Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng Mỹ nêu vấn
đề Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa bị bỏ phế với chính quyền Việt Nam. Vận động trùng tu nghĩa trang
Trong chuyến đi làm việc tại Việt Nam hồi tháng Năm vừa qua, ông đã
ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Trở về Mỹ ông đã họp với VAF
Sáng Hội Mỹ Việt, là tổ chức đang vận động công cuộc trùng tu Nghĩa
Trang Quân Đợi Biên Hòa bao năm nay, rồi tiếp đó lại có cuộc họp liên
quan khác với VAF và đại sứ Mỹ tại Việt Nam là ông Ted Osius. Trả lời
bài phỏng vấn do Thanh Trúc thực hiện, dân biểu Alan Lowenthal cho biết:
*Book Hunter: Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành
chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không
chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể
hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ.
Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen
chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi,
khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm,
liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
Còn nhớ lại những ngày tháng tư của bốn mươi năm về trước (30-4-1975),
không biết sao mà năm đó trời bổng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ
hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những
người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Rang, Phan
Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.
Trong
cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa
học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo
cơn mưa, mịt mù đạn pháo.
“Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn ? cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi” Bốn câu thơ cổ trong bài Lương Châu Từ của Vương Hàn (687-726) đã nói
lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên
mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má,
đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến củ,
những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để
vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.
Chào Em, Sàigòn 40
I.
Cuối cùng thì tôi cũng về cái ổ của mình. Nằm thẳng cẳng, hai tay đan trên ngực, mắt nhắm nghiền, tôi giống hệt như những người được Chúa gọi về. Chỉ có khác đôi điều là còn thở phì phò và trái tim còn đập lổn nhổn khi trồi khi sụt. Ba tuần lễ ở Sàigon để thăm lại người mẹ ra đi năm ngoái, tôi như con thú hoang đi lạc. Mọi thứ đều lạ lẫm, trễ tràng. Sàigon thật sự không còn của riêng tôi.
Trong khoảng thời gian gần 3 năm, kể
từ sau cú ngựa về ngược tại Hội nghị TƯ 6 - Khoá XI vào tháng 10 năm
2012, đồng chí X đã tiến hành một kế hoạch thâu tóm quyền lực tinh vi và
tàn độc nhất trong lịch sử đảng CSVN.
Nối kết số phận của Phạm Quý Ngọ, Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh sẽ
hình thành một bức tranh chan hòa màu đỏ của chết chóc và màu đen của sợ
hãi. Tác giả của nó là đồng chí X.
Để thấy rõ hơn những gì đã và đang xảy ra đối với Phùng Quang Thanh,
chúng ta thử nhìn lại cái chết của Nguyễn Bá Thanh. Để thấy được vì sao
Nguyễn Bá Thanh chết, lại cần nhìn lại phiên bản qua đời của Phạm Quý
Ngọ.
Mùa Hạ, hè về trong tâm hồn chúng ta ít nhiều dấu vết của những bông phượng đỏ, kỷ niệm của một thời áo trắng học trò. Mùa hè mùa của tuổi trẻ, của tuổi học trò hồn nhiên với tà áo biếc,
rộn rang khúc khích tiếng cười. Mái tóc hiền ngoan xỏa xuống đôi vài,
mái tóc bay bay trong một chiều chớm hạ làm cho áo đó ngẫn ngơ và phượng
kia xao xuyến mãi trên cành.
Hồn nhiên một ánh mắt nhìn, nụ hồng chớm nở trong tim. Ai nghe hồn mình
xúc động như ngày Đông cứ ấm lên dần. Nhưng có một ngày, một ngày của
tháng Tư, xa nhau từ đó và thăm thẳm. Phượng ở công viên nỡ toàn hoa
tím. Phương xưa đỏ cành đã bỏ đi đâu? Phượng của tình tôi nhánh sầu tay
hái. Phượng nay đường dài mình chẳng gặp nhau…
Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai. (Nguyễn Đình Toàn)
TIỂU SỬ:
Nguyễn Đình Toàn có bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân nhưng thành danh
với tên thật và cũng là bút hiệu chính thức sau này; sinh ngày 6 tháng 9
năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư
vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch,
viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học [trong nhiều năm,
Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho
báo Văn]; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do,
Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn,
nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975,
cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt
hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ
cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách
chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết
cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho
tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam
California.
“Thanh Tâm Tuyền có một khuôn
mặt hùng tráng, mày rậm mà rõ nét, mắt sáng ngời ngời, rèm mi dài dài,
sóng mũi thanh tú, chiếc cằm vuông cương quyết. Khi ông không cười,
ánh mắt ông rực rỡ hẳn lên, áng sáng nội tâm như tuôn ra ánh mắt, nụ
cười. Vóc ông hơi gầy gò, lưng ông hơi cong. Cái phá tướng của ông là ở
dáng đi hơi lóm thóm, ở bàn tay quá phong lưu, quá mềm mại.
Khi tờ Sinh Hoạt Nghệ Thuật đình bản và ông giao mục Văn Học nghệ
Thuật trên báo Tiền Tuyến cho Sơ Dạ Hương (Nguyễn Quốc Trụ) trông nom
thì tôi không còn có dịp nào gặp ông nữa.
Chúng
tôi chỉ muốn cho bà Dân Biểu biết những thành viên của cộng đồng người
Mỹ gốc Việt ở Nam lẫn Bắc California rất tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục
bởi ông Ted Osius, tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong chuyến viếng
thăm cộng đồng người Việt vào ngày 13 và 14 tháng 7 năm 2015.
Là
một nhà ngoại giao, ông Osius nên hành xử khôn ngoan và chuyên nghiệp
khi ông tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ nói chung và tại
đặc biệt ở tiểu bang California nơi có người Việt tỵ nạn cộng sản đông
nhất cư ngụ. Ông Đại Sứ này đã không tỏ thái độ kính trọng cộng đồng
chúng tôi khi ông cố tình yêu cầu không trưng bày lá cờ vàng truyền
thống tự do của chúng tôi tại bất cứ nơi nào ông ta đến. Hành động phản
dân chủ này không những vi phạm Điều 1 tu chính Hiến Pháp Hoa Kỳ mà còn
xúc phạm đến danh dự truyền thống dân tộc đặc thù của chúng tôi.